Tính sử thi trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành
- Người viết: AT SCHOOL lúc
- Ngữ văn
- - 0 Bình luận
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là văn học sử thi. Cảm hứng anh hùng ca (sử thi) xuất hiện trong hầu hết các sáng tác văn xuôi thuộc giai đoạn này. Nhưng có lẽ, tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất và sinh động nhất tính chất sử thi của văn xuôi cách mạng Việt Nam là truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.
Tác phẩm này có nhiều điểm đặc biệt so với các truyện ngắn cùng thời. Khi nói đến khái niệm sử thi trong văn học hiện đại, người ta hiểu thuật ngữ này theo nghĩa rộng, tức là “tính chất sử thi”. Rừng xà nu không chỉ mang đặc điểm của sử thi hiện đại mà còn có dáng dấp của “thể loại” sử thi cổ điển. Câu chuyện đã gợi cho người đọc nghĩ về một thế giới xa xưa với phương thức sản xuất cổ truyền, với một bộ lạc (dân tộc) sống trong núi rừng và đứng đầu là một vị thủ lĩnh đạo cao đức trọng, vẫn là những hoạt động thu hút được sự tham gia của toàn thể cộng đồng mà ta vẫn thường thấy trong các sử thi Tây Nguyên như lao động và sinh hoạt văn hoá... Nhưng đề tài nổi bật nhất của các sử thi hiện đại vẫn là chiến tranh. Hêghen cho rằng: “Tình huống phù hợp nhất với sử thi là các xung đột của trạng thái chiến tranh. Thực vậy, trong chiến tranh, chính toàn bộ dân tộc đang vận động (Mĩ học). Truyện Rừng xà nu lại ra đời vào một thời điểm quan trọng: năm 1965, Mĩ đổ quân vào Việt Nam. Bởi vậy, có thể nói, truyện ngắn này đã phản ánh một xung đột mang “tầm cỡ sử thi”.
Bối cảnh câu chuyện lùi về trước đó một chút, là thời điểm mang tính bước ngoặt trong việc lựa chọn giữa hai con đường “chết vinh hay là sống nhục”. Dân làng Xô Man ủng hộ cách mạng. Giặc tàn sát dã man, treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, dùng “trận mưa cây sắt” để giết Mai và đứa trẻ sơ sinh, đốt mười ngón tay Tnú… “Tức nước” ắt phải “vỡ bờ”, dưới sự lãnh đạo của “tù trưởng”, các dũng sĩ của dân tộc Strá cầm giáo mác lao vào chém giặc. “Tiếng chiêng nổi lên (...). Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động Và lửa cháy khắp rừng”. Thông qua nỗi đau ghê gớm của Tnú và dân làng Xô Man, tác giả muốn khẳng định con đường tất yếu của họ là đến với cách mạng. Ngoài ra, cũng giống như chủ đề của nhiều sử thi khác, tác phẩm này có mục đích ôn lại truyền thống hào hùng, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và lòng dũng cảm của những anh hùng đại diện cho lợi ích dân tộc và kêu gọi nhân dân sẵn sàng vùng lên đánh đuổi giặc thù (cụ Mết kể lại cho mọi người, nhất là lũ trẻ nghe “kì tích” về anh hùng Tnú cũng là nhằm mục đích đó).
Nhân vật chính của sử thi là những anh hùng có phẩm chất cao cả hiện thân cho lợi ích cộng đồng. Tnú là người có đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ của dân làng và cách mạng. Đức tính nổi bật nhất của anh là lòng dũng cảm. Tham gia cách mạng từ nhỏ, bị bắt, vượt ngục, anh lại đến với cách mạng. Nhờ sư mưu trí và gan dạ mà anh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngọn lửa bốc cháy trên mười đầu ngón tay Tnú là một bằng chứng thiết thực nhất về lòng trung kiên với cách mạng. Anh còn có tình yêu thương sâu sắc. Vì thương vợ con mà phải liều mình cứu vợ con, vì thương dân làng mà phải đi đánh giặc để dân làng được bình yên. Đi chiến đấu, “nỗi nhớ day dứt lòng anh” là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của dân làng. Có thể nói, Tnú là người anh hùng thuộc về quần chúng. Nói như Biêlin xki: “nhân vật của anh hùng ca phải là người đại diện xứng đáng của tinh thần dân tộc”.
Văn học cách mạng rất chú trọng đến vai trò của tập thể quần chúng. Trong rừng xà nu, nói đến sự thành công của cách mạng là phải kể đến vai trò của dân làng, mà đứng đầu là cụ Mết. Tất cả họ đều “muôn người như một” chung một lí tưởng, cùng tự hào về truyền thống vẻ vang của buôn làng. Cụ Mết là hiện thân cho truyền thống bất khuất đó. Qua các hoạt động và lời ăn tiếng nói của họ, ta thấy phảng phất hình ảnh của thời Đam San, Xinh Nhã. Khi cộng đồng đã quyết làm chuyện gì thì không ai đứng ngoài. Ngay cả lối tư duy cũng giống nhau. Một thằng Dục chết rồi, cả dân làng còn cố gắng giết nhiều thằng Dục hơn nữa. Vì họ tin rằng “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”. Khi bắt được một thằng lính khúc, Tnú hỏi: "Dục, mày có nhớ tau không?”. Nguyễn Trung Thành đã rất tài tình khi thể hiện được bản sắc riêng độc đáo của đồng bào dân tộc miền núi Tây Nguyên. Ông không chỉ chú ý đến cái chung mà còn khắc hoạ được cả nét riêng sinh động của một cộng đồng hoặc một cá nhân. Cụ Mết có những nét khác người: Thân hình quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng xếch ngược vết sẹo trên má láng bóng, bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt! Giọng nói “ồ ồ” “vang vang”, và chỉ nói “được” những lúc cho là tốt nhất. Tnú có một số phần cũng chẳng giống ai trong buôn làng: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vợ con chết, bị cụt mười đầu ngón tay. Tác giả còn miêu tả cả nhược điểm của anh là học chữ thua kém Mai (nhét chữ vào đầu không vô) đã nổi nóng đập bể bảng nứa và “đòi đánh Mai”, rồi”... cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Đưa ra chi tiết gân guốc này, tác giả muốn cho nhân vật có sức thuyết phục bạn đọc. Cũng như chúng ta nhớ đến Asin là nhớ đến cơn giận dữ điên cuồng của chàng, nhưng như Hêghen bênh vực: “Chúng ta không cần tha lỗi cho chàng về chỗ đã nổi giận, bởi vì chàng có nhiều ưu điểm khác” (Mĩ học).
Ngôn ngữ của Rừng xà nu cũng mang đậm tính sử thi. Đó là giọng điệu ngợi ca, thành kính trước vẻ đẹp của những anh hùng (Tnú, cụ Mết...). Tác giả dùng những lời trang trọng nhất để nói về họ. Cũng giống như sử thi Ôđixê, phần lớn câu chuyện được thể hiện thông qua lời kể của nghệ nhân sử thi (cụ Mết). Với mục đích kêu gọi chiến đấu, ngôn ngữ của người kể chuyện mang âm hưởng sôi nổi hào hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”. Lời kêu gọi của cụ Mết thể hiện rất rõ lối điệp từ ngữ quen thuộc của sử thi. Vì ngày xưa, sử thi tồn tại ở dạng nói, nên người kể phải thường xuyên lặp lại những chi tiết quan trọng để khắc sâu vào tâm trí người nghe. Rừng xà nu thể hiện rất rõ âm hưởng trùng điệp, hùng tráng của sử thi. Tác giả lặp lại ít nhất 20 lần hình tượng cây xà nu dưới nhiều góc độ khác nhau: đường nét, màu sắc, mùi vị, công dụng… Mở đầu tác phẩm là rừng xà nu, bạt ngàn, kết thúc, cũng là rừng xà nu chạy đến chân trời. Điều đó cho thấy tác giả đặt niềm tin vào sự lớn mạnh, đông đảo của cách mạng. Mỗi chiến sĩ là một cây xà nu trong khu rừng bạt ngàn đó. Cụ Mết được ví như một cây xà nu lớn. Nếu như thơ xưa lấy cây thông (cùng họ với xà nu) tượng trưng cho người quân tử thì Nguyễn Trung Thành lấy cây xà nu tượng trưng cho sức sống bền bỉ quật khởi của dân làng Xô Man. Cây xà nu cũng như con người, biết thể hiện khí thế tiến công ngay từ lúc còn nhỏ: Có những “cây con mọc lên ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Cây cũng biết bảo vệ con người: “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” và chấp nhận “bị thương” “thành từng cục máu lớn”. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ như tượng trưng, nhân hoá, so sánh... để tô điểm chất thơ cho khung cảnh và tạo không khí huyền thoại cho câu chuyện. Nếu tác giả sử thi Đam San tin rằng cây Smuk là cây thần thì các nhà sử thi cách mạng dùng yếu tố kì ảo chỉ là để thể hiện ý tưởng “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” (Tố Hữu).
Có thể nói, Rừng xà nu là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, nó đã khái quát đưa hiện thực đau khổ nhưng vĩ đại của dân tộc. Nguyên Ngọc đã thành công trong việc chạm khắc tượng đài kì vĩ, chói lọi của các anh hùng cách mạng: Núp (chống thực dân Pháp), Tnú (chống đế quốc Mĩ)... Tác dụng to lớn của hai sáng tác này là cố vũ chiến đấu, lưu giữ lại âm hưởng hùng tráng một thời của dân tộc và góp phần giáo dục tình cảm yêu nước cho các thế hệ sau. Bởi vậy, có thể coi đây là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta.
Phạm Ngọc Hiền | Báo Văn học & Tuổi trẻ, Số 6 (84), 2003, tr.8-11.