Ngữ văn

Tình yêu đất nước thầm kín của Nguyễn Tuân

Khi viết về sông Đà, Nguyễn Tuân đã bộc lộ rõ mình là một nhà văn với tình yêu quê hương đất nước tha thiết bởi trong văn chương nghệ thuật, viết về sông núi là viết về giang sơn mà viết về giang sơn, là viết về Tổ quốc. Đây là tình yêu nhất quán trong cuộc đời cầm bút của nhà văn. Trước cách mạng, tình yêu quê hương Tổ quốc của Nguyễn Tuân được bộc lộ một cách thầm kín thông qua tác phẩm “Thiếu quê hương”. Đó là nỗi lòng của những con người “sống giữa quê hương nhưng vẫn thấy mình thiếu quê hương.” Còn nói như Chế Lan Viên:“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấyTổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”Giờ đây, khi viết về con sông Đà, ánh sáng cách mạng rọi chiếu vào tâm hồn của nhà văn, phù sa của nhân dân bồi đắp. Ông đứng giữa dòng sông Đà, đứng giữa nhân dân Tây Bắc để bộc lộ trực tiếp tình yêu nước sâu sắc qua từng câu chữ. Không yêu sao được khi ông đến với Đà giang, viết về một con sông hùng vĩ, ông đã đọc hàng trăm trang cổ sử, hàng trăm trang “Dư địa chí”, đọc biết bao nhiêu áng thơ trữ tình của Tản Đà, của Lí Bạch, của Nguyễn Quang Bích,… nhưng viết về Đà giang, Nguyễn không bị lệ cổ, không bị tập cổ, không bị ảnh hưởng bởi người xưa mà đã tái tạo mới trên từng trang viết vì nói như Nam Cao: “Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có.”Cần phải khẳng định rằng khi viết tập tùy bút “Sông Đà”, Nguyễn Tuân đã đi thực tế ở trên Tây Bắc. Trong chuyến đi, Nguyễn Tuân đã thâm nhập vào đời sống của nhân dân Tây Bắc và đã trở thành người đầu tiên kể ra chính xác 50 trên tổng số 73 con thác dữ từ ngã 3 biên giới Việt – Trung về tới Chợ Bờ. Tố Hữu đã từng nói: “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật ứ đầy”. 15 bài kí trong tập tùy bút “Sông Đà” nói chung và “Người lái đò sông Đà” nói riêng thực sự đã được tràn ra từ trong trái tim Nguyễn Tuân khi cuộc sống của nhà văn trên Tây Bắc đã đủ đầy để chảy tràn thành những áng văn đẹp.Tình yêu nước ấy còn được bộc lộ khi Nguyễn Tuân nhớ lại một lần nhà văn bám gót anh liên lạc. Nhìn thấy con sông Đà từ rất xa, Nguyễn Tuân gọi con sông ấy là một cố nhân, một người tình chưa hề biết mặt theo ý thơ của Tản Đà. Thế là bao nhiêu những vần thơ của các bậc tao nhân mặc khách chợt ùa về trong tâm hồn của nhà văn Nguyễn Tuân. Ông nguyện theo người xưa để thơ lên sóng nước sông Đà. Như vậy, 15 bài kí mà Nguyễn gửi trong kho tàng văn chương Việt Nam là gì nếu không phải là những vần thơ đẹp được ông thả trên dòng sông nghệ thuật?Bên cạnh đó, tình yêu nước của Nguyễn Tuân còn được thể hiện khi ông say sưa kể về những loài cá quí hiếm chỉ có ở Đà giang. Đó là cá anh vũ, cá dầm xanh “vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi.” Như vậy rõ ràng, đây chính là “chất vàng mười” của rẻo cao Tây Bắc. Đó không chỉ là “chất vàng mười” của thi ca mà còn là “chất vàng mười” của kiến thức. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài kí này, Nguyễn Tuân ước ao được nghe một tiếng còi tàu xúp - lê từ Yên Bái, Việt Trì vọng lên trên Tây Bắc. Điều ấy khiến ta liên tưởng tới Chế Lan Viên với mong muốn được hóa thành đoàn tàu để chở mọi người lên khai phá mảnh đất nơi đây.Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân vừa hùng vĩ, vừa dữ dội nhưng cũng vô cùng mĩ lệ, trữ tình và vô cùng lãng mạn. Hai tính cách ấy đặt bên cạnh nhau nhưng không hề bài trừ nhau mà lại tôn vinh nhau, khiến con sông Đà trở nên chân thực sống động, cựa mình trên trang viết. Quan trọng hơn, đằng sau dòng sông ta thấy hiện lên một bức chân dung của một Nguyễn Tuân với tình yêu quê hương đất nước; một Nguyễn Tuân đã được ánh sáng của Đảng soi rọi, được phù sa của nhân dân bồi đắp; một Nguyễn Tuân với tâm hồn mà như Tố Hữu đã viết:“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạMặt trời chân lí chói qua timHồn tôi là một vườn hoa láRất đậm hương và rộn tiếng chim”Như vậy, Nguyễn Tuân viết bài kí “Người lái đò sông Đà” bằng một tâm hồn rộn ràng tiếng chim như thế, bằng một tâm hồn như một vườn hoa thơm quả ngọt. Rõ ràng ông là người chiến sĩ trên mặt trận văn chương.

Chân dung người lính trong "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng chí" của Chính Hữu

Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. Đều là những người nghệ sĩ tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn ngữ và các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu đã làm nên những giá trị to lớn trong những tác phẩm của mình.Người lính là hình tượng trung tâm trong văn thơ thời kháng chiến, ở mỗi thời kì lịch sử của những cuộc chiến tranh, người lính trong đời sống thực tại cũng như trong thi ca đều có những nét khác nhau. Dù cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp có hai loại người lính: một là người lính xuất thân từ nông dân như trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu; hai là người lính xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản thành thị như trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng thì cả hai đều có chung lí tưởng yêu nước, đánh giặc, cùng thể hiện trách nhiệm xả thân vì tổ quốc, vì nhân dân. Đó chính là vẻ đẹp về chân dung người lính sẽ được chúng ta đề cập, bàn luận đến trong hai bài thơ nổi tiếng là Tây Tiến và Đồng chí.Chân dung người lính trong bài thơ Tây Tiến được miêu tả bằng cảm hứng lãng mạn. Bút pháp lãng mạn thường thể hiện bằng cái cao cả, phi thường. Khung cảnh, hoạt động của người lính cũng là khung cảnh phi thường:“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”Những độ cao, những vực thẳm hay những heo hút chỉ làm tăng vẻ hào hùng cho người lính chứ không đe dọa các anh. Và thiên nhiên còn ẩn chứa cả những bí mật, những hiểm nguy vẫn không hề gây sợ sệt cho người lính:“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm mường Hịch cọp trêu người”Hình ảnh người lính cũng thật là phi thường. Người lính Tây Tiến gần với người hiệp sĩ vì nghĩa cả lớn lao, nhưng họ là những con người bằng xương bằng thịt đang sống, chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ của những ngày đầu kháng chiến:“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùm”.Miêu tả những gian khổ, khó khăn của người lính ở rừng rất chân thật, thiếu ăn, thiếu thuốc, sốt rét… đến nỗi rụng hết tóc. Nhưng bút pháp lãng mạn không làm yếu người lính mà càng oai hùng đầy tự hào. Cái chết cũng bi hùng, đượm tinh thần hi sinh khí phách anh hùng của hiệp sĩ:“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”.Người lính Tây Tiến mang theo nét hào hoa của những thanh niên đất Hà thành lên đường chiến đấu thời bấy giờ, trong đó có nhà thơ Quang Dũng. Tình quân dân cũng nhuốm màu sắc lãng mạn:“Doanh trại bừng lèn hội đuốc hoaKìa em xiêm áo tự bao giờKhèn lên man điệu nàng e ấpNhạc về Viên Chăn xây hồn thơNgười đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờ”.Con người như lạc vào thiên nhiên thơ mộng, lạc vào xứ lạ, phương xa thường thấy trong cảm hứng lãng mạn.Giấc mơ của người lính Tây Tiến cũng là giấc mơ của những thanh niên Hà Nội tràn đầy tinh thần lãng mạn:“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”Nhà thơ Quang Dũng đã mạnh dạn xây dựng chân dung người lính thời kháng chiến bằng một tình yêu nồng nàn. Người lính sẵn sàng hy sinh vì lợi ít dân tộc, quê hương. Với ngòi bút tài hoa của tác giả, hình tượng người chiến sĩ hiện lên thật đẹp đẽ và lãng mạn.Hình tượng người lính trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu được tác giả mô tả với bút pháp hiện thực. Người lính hiện lên với tất cả các dáng vẻ chất phác, lam lũ của người nông dân mặc áo lính. Họ là người của nhiều miền vùng, đến từ những làng quê nghèo đói, gặp nhau trong lí tưởng cứu nước:“Quê hương anh nước mặn đồng chuaLàng tôi nghèo đất cày lên sỏi đáAnh với tôi đôi người xa lạTừ phương trời chẳng hạn quen nhau”Từ tình yêu giai cấp, tình yêu nước, lòng căm thù giặc nên họ đã nâng lên thành tình đồng chí, một thứ tình cảm mới mẻ:“Súng bên súng đầu sát bên đầuĐêm rét chung chăn thành đôi tri kỉĐồng chí!”Tấm chăn đắp lại thì tâm tư họ mở ra, họ hiểu rõ hoàn cảnh của nhau, thông cảm lẫn nhau:“Ruộng nương anh gửi bạn thân càyGian nhà không mặc kệ gió lung lay”.Ở ngoài chiến trường mà nghe rõ gió lung lay từng gốc cột của ngôi nhà mình, người lính thương yêu gia đình, quê hương biết bao nhiêu, nhưng trước hết họ phải vì nghĩa lớn, nợ tang bồng. Về tinh thần hiệp sĩ này, họ lại rất gần với người lính Tây Tiến của Quang Dũng.Họ sẵn sàng chịu đựng những gian khổ, thiếu thốn tột cùng của cuộc kháng chiến:“Áo anh rách vaiQuần tôi có vài miếng váMiệng cười buốt giáChân không giàyThương nhau tay nắm lấy bàn tay”Tình đồng chí đã nuôi dưỡng tâm hồn của những người lính và họ đã biến nó thành sức mạnh chiến đấu. Một chi tiết trong thơ: chiếc áo trong Tây Tiến của Quang Dũng nói là áo bào có tính chất hiệp sĩ còn trong Đồng chí của Chính Hữu nói áo anh rách vai rất hiện thực.Từ tình thương yêu giai cấp, cùng tham gia kháng chiến, họ đã cùng vươn lên đỉnh cao của tình đồng chí, đồng đội:“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”Chung nhau một cái chăn là một cặp đồng chí; áo anh rách vai, quần tôi có vài miếng vá là một cặp đồng chí; đêm nay giữa rừng hoang sương muối đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới là một cặp đồng chí. Và cũng rất lạ, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí: “đầu súng trăng treo”. Súng và trăng là biểu hiện cao cả của tình đồng chí. Sự kết hợp yếu tố hiện thực tươi rói với tinh thần lãng mạn cách mạng là vẻ đẹp riêng của chân dung người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu.Như vậy, với con mắt tinh tế, một sự trải nghiệm về cuộc kháng chiến của dân tộc, Quang Dũng và Chính Hữu – hai thi sĩ cách mạng đã phác họa chân dung người lính trong thời kỳ đấu tranh chống Thực dân Pháp thật oai hung, cao đẹp, giàu lòng nhiệt huyết, yêu nước, chấp nhận hy sinh để bảo vệ nước nhà. Hình tượng người lính hiện lên với sự lãng mạn như trong bài thơ Tây Tiến và cũng rất hiện thực như trong bài thơ Đồng chí. Tất cả những đều ấy đã tô điểm cho phẩm chất của người chiến sĩ, phẩm chất của bộ đội cụ Hồ. Càng đọc hai bài thơ này, chúng ta càng thắm thía chất thơ trữ tình chính trị, khẳng định tài năng sáng tạo độc đáo của Chính Hữu và Quang Dũng.

Chất bi tráng của người lính Tây Tiến

Chất bi tráng làm nên sắc diện của bài thơ, có mặt trong tác phẩm nhưng nổi rõ và in đậm nhất ở khổ thơ thứ 3 khi Quang Dung miêu tả chân dung người lính. Giữa thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật bi tráng. Quang Dũng đã dùng những hình ảnh rất hiện thực để thể hiện cái phi thường của người lính: “Tây Tiến đoàn binh … oai hùm”. Hai câu thơ đầu gợi lên vẻ đẹp bi tráng. Đầu tiên đó là cái bi thương gợi lên từ ngoại hình của người lính ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn quân “xanh màu lá” chứ không phải “xanh xao”, người lính Tây Tiến như hòa mình vào thiên nhiên cây lá - ốm mà không yếu, gầy, ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống. Nhắc đến “Đoàn binh không mọc tóc” tác giả đã gợi lại hình ảnh anh “vệ trọc: một thời. Câu thơ tả cái ngang tàng của người lính nhưng lại có nét đùa vui, hóm hỉnh: không cần tóc mọc. Dù đói rét, bệnh tật và muôn ngàn gian khổ nhưng người lính vẫn tưng bừng khí thế, vẫn “dữ oai hùm”. Cái bi nghiệt ngã nhưng không hề lấn át cái hùng. Dù có tiều tụy về hình hài nhưng tinh thần vẫn khỏe khoắn, dũng mãnh như chúa sơn lâm, vẫn kiên định với lí tưởng cách mạng qua hình ảnh đôi mắt ngời sáng: “Mắt trừng gửi mộng…kiều thơm”. Đó là cái mộng chiến đấu và chiến thắng. Ở đây, ta thấy được cái chí và cái tình của người lính. “Chí” trong ánh mắt quyết tử, “tình” bâng khuâng trong giấc mơ lãng mạn. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiểu thơm” hình ảnh Hà Nội và dáng kiều thơm hiện về trong đêm mơ là nguồn động viên, cổ vũ đối với các chiến sĩ. Một thoáng kỉ niệm êm đềm trong sáng ấy đã tiếp sức cho họ trong chiến đấu gian nan. Có lẽ lí tưởng cách mạng khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao. Đó là những nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn. Gọi về trong kí ức, Quang Dũng nhắc đến sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Tác giả nhìn thằng vào cái bi nhưng đem đến cho nó một vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt và trang trọng. Dù nói về cái chết, nỗi đau mất mát nhưng Quang Dũng lại không dùng những từ bi ai. Cách dùng từ Hán Việt “ biên cương “, “ viễn xứ”, “áo bào”…trang trọng đã khiến cái bi thương, lạnh lẽo mờ đi làm cho sự hi sinh của chiến sĩ Tây Tiến được đặt vào không khí thiêng liêng trang trọng, tạo tâm thế ngưỡng mộ đầy tôn kính cho người đọc. Và cảm giác ảm đạm ngậm ngùi đã nhanh chóng bị xóa đi bởi tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2: “Chiến trường …. đời xanh”. Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, khẳng định mãnh mẽ khí phách của tuổi trẻ một thời không chỉ tự nguyện chấp nhận mà còn vượt lên trên cái chết, sẵn sàng dâng hiến cả sự sống, cả tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc. Họ đã ra đi với tất cả lòng say mê của người thanh niên yêu nước, sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước, có người “Chưa kịp yêu một người con gái/ Ngã vào lòng đất vẫn còn trai”. Tuổi trẻ ai chẳng mang cho mình khát vọng, hạnh phúc, tình yêu, ai chẳng mong cho mình được sống với tuổi thanh xuân đầy hoa mộng. Thế nhưng người lính ở đây lại “chẳng tiếc” cho mình. Phải chăng ở họ, cái dòng máu anh hùng của thời đại đã in đậm trong trí não, và dòng máu Lạc Hồng mấy ngàn năm lịch sử. Hình ảnh người lính bi tráng và hàohùng bởi Quang Dũng đã nói được một điều cốt lõi trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn ra đi. Họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi họ hiến dâng tuổi thanh xuân cho lí tưởng cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc. Họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận: “Áo bào ... độc hành”. Cách nói “áo bào thay chiếu” là cách nói bi tráng hóa, tráng lệ hóa sự hi sinh của người lính. Hiện thực bi thương khốc liệt đã được thi vị hóa qua hình ảnh “áo bào” thật sang trọng để các anh “về đất” thanh thản, nhẹ nhàng. Quang Dũng có kể lại : "Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm, nói áo bào thay chiếu là cách nói của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí vừa ngã xuống”. Hơn nữa, “áo bào” còn gợi ra hình ảnh của những bậc võ tướng xưa, hùng dũng, hiên ngang, thì cái chết của những người lính cũng xứng tầm oai phong, sang trọng như thế, bi hùng bi tráng chứ không bi thương, bi lụy. Tinh thần ấy còn được nâng đỡ ở câu thơ sau: ”Sông Mã…. độc hành”. Thiên nhiên gầm lên khúc tráng ca làm rung chuyển trời đất đưa các anh về cõi vĩnh hằng. Câu thơ vang dội như một khúc nhạc kì vĩ. Âm hưởng của khúc nhạc bi tráng, khúc nhạc thiêng tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng. Khúc tráng ca của thiên nhiên trở thành tiếng khóc lớn nâng sự hi sinh của những người lính Tây Tiến lên tầm vóc sử thi.

Vẻ đẹp ngôn ngữ thơ ca trong bài thơ "Tây Tiến" của Quang Dũng

Giả Đảo thời Đường đã từng chiêm nghiệm: “Nhị cú tam niên đắc Nhất ngâm song lệ lưu” (Hai câu làm mất ba năm Một ngâm, lã chã hai hàng lệ rơi)Làm được những câu thơ vừa ý mình chưa bao giờ là đơn giản với một nhà thơ, vừa ý người đọc lại càng là chuyện khó khăn. Ấy thế mà, vẫn có những bài thơ tuyệt bút có thể khiến “kinh nhân”, xao xuyến mãi không thôi. Với vẻ đẹp ngôn ngữ, “Tây Tiến” là một bài thơ như thế.Người ta thường nói: Thơ ca bắt rễ nơi lòng người nhưng nở hoa nơi từ ngữ. “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” (M.Gorki) để người đọc có thể tiếp cận và sống cùng với tác phẩm. Bởi thế, việc sáng tạo ngôn từ để làm nên một tác phẩm hay, chưa bao giờ là chuyện đơn giản cả. “Nhà thơ là người phu chữ” (Lê Đạt) để cần cù học tập ngôn ngữ của “người trồng dâu, trồng khoai”, để cần cù gạn lọc, “chế tạo và sáng tạo” ra ngôn ngữ của mình. Những chữ ấy là đẹp cho tác phẩm, hấp dẫn người đọc và là cách để nhà thơ khẳng định tài năng của mình. Vẻ đẹp ngôn ngữ của “Tây Tiến” đã làm được những điều ấy.Đối với Quang Dũng, Tây Tiến vừa là một miền nhớ, vừa là một miền thương. Ra đời khi tác giả đã trở về làng Phù Lưu Chanh, “Tây Tiến” là câu từ của nỗi nhớ, là kỉ niệm cùng anh em chiến sĩ nơi núi rừng miền Tây, chất chứa bao tình cảm của tác giả với những tháng ngày dài cùng nhau chiến đấu. Cho nên bài thơ viết năm 1948 chính là sản phẩm của nỗi nhớ, thấm đẫm cảm xúc của nhà thơ chiến sĩ, là lời ca ngợi vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của người lính, cái chất lãng mạn của những thanh niên trai trẻ vừa rời khỏi ghế nhà trường đã anh dung xung phong đi chiến đấu. Đối với hình tượng trữ tính ấy, ngôn ngữ bài thơ cũng mang hào hùng, độc đáo và nét hào hoa, cổ điển riêng.“Tây Tiến” là bài thơ nằm trong văn học thời kì kháng chiến – của những “vần thơ lửa chảy” nên ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của sự hào hùng, thanh âm của sự hùng tráng và mang đậm cảm hứng sử thi. Nhưng, ngay cả trong nét sử thi ấy cũng là sự hào hùng, hùng tráng rất độc đáo. Hãy lắng nghe khúc tráng ca đầy dũng mãnh của thiên nhiên núi rừng Tây Tiến:“Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.“Thác gầm thét, cọp trêu người” là những hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự hoang sơ, dữ dội, bí hiểm của núi rừng Tây Bắc. “Chiều chiều, đêm đêm” là những trạng ngữ chỉ thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng càng làm cho câu thơ trùng xuống, tạo không khí trầm hùng. Sức mạnh của thiên nhiên ngự trị nơi đây không phải chỉ có một chiều, một đêm mà đã là “chiều chiều, đêm đêm”.Đứng trước ngàn gian khó, gian nan, những câu thơ vẫn rắn rỏi và tếu táo, đậm chất lính:“Tây Tiến đoàn binh không mọc tócQuân xanh màu lá dữ oai hùmMắt trừng gửi mộng qua biên giới…”Hai câu thơ đầu của Quang Dũng vang lên với cách nói khẩu khí quen thuộc. Sự thật hiện lên một cách thẳng băng như nó vốn có bằng “ngôn ngữ lính” nên hóa bất ngờ, và vì bất ngỡ nên vẻ trần trụi của hiện thực được cảm nhận khác đi. Câu thơ không gợi ý nghĩ bi đát, mặc dù ai cũng hiểu sự “không mọc tóc” và làn da “xanh màu lá” chính là hậu quả của sốt rét. Bởi câu thơ của Quang Dũng mỗi khi vừa chạm tới địa hạt của hiện thực lại được nâng lên bằng đôi cánh lãng mạn. Cụm từ “không mọc tóc” làm cho câu thơ rắn rỏi, gân guốc; câu thơ ngang tàng; con người hiện lên với tâm thế chủ động, tư thể hiên ngang ngạo nghễ. Biện pháp ẩn dụ kết hợp phóng đại “dữ oai hùm” khiến chủ thể hiện lên uy nghi, đường bệ như chúa sơn lâm, khiến ốm mà không yếu – dáng vóc của những tráng sĩ chinh phu.Đặc biệt là giọng thơ trầm hùng, bi mà không lụy để tạo nên cái bi tráng:“Rải rác biên cương mồ viễn xứChiến trường đi chẳng tiếc đời xanhÁo bào thay chiếu anh về đấtSông Mã gầm lên khúc độc hành”Câu thơ sử dụng hệ thống những từ Hán Việt: “biên cương” “viễn xứ”, “chiến trường”, “áo bào”, “độc hành” làm cho không khí trở nên trang giọng, lời thơ trầm lắng, giọng thơ trầm hùng, bi tráng. Lại một cách nói chủ động: “chẳng tiếc đời xanh” khẳng định khí thế ngang tàng của những bậc nam nhi coi cái chết nhẹ tựa hồng mao. Hình ảnh “áo bào” gợi về bóng dáng những Kinh Kha bên bờ sông Dịch: “Tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn” cùng biện pháp nói giảm nói tránh càng làm cho người lính hiện lên cao đẹp. Cái chết đối với họ, đơn giản chỉ là sự trở về khi mình đã sống và chiến đấu hết mình trong một tâm thế ung dung, nhẹ nhàng. Trước đây, khi nhắc đến những câu thơ này của Quang Dũng, người ta thường thấy ở đó những biểu hiện tiêu cực của “mộng rớt”, “buồn rớt” hay “yêng hùng tư sản”. Cái khẩu khí của nhà thơ, của những anh bộ đội Tây Tiến ấy, thực ra, vô cùng đáng trọng. Nó là biểu hiện quyết tâm của những con người yêu giống nòi, sẵn sàng đổ máu hi sinh vì những lẽ sống lớn lao. Họ không phải nạn nhân, những con tốt đen vô danh vô nghĩa trên bàn cờ trận mạc mà là những “chủ thể đầy ý thức của lịch sử”, biết sống đẹp từng giây phút, biết ước mơ, hi vọng và khi cần thì sẵn sàng hiến dâng. Những câu thơ của Quang Dũng thực sự ngang tầm vóc với các chiến sĩ đã bỏ mình vì nghĩa lớn. Sự ra đi của họ lại được cất lên thành khúc “độc hành” của sông Mã đầy uy nghiêm và trang trọng. Tầm vóc con người đã sánh ngang tầm vũ trụ.Cùng với vẻ đẹp trầm hùng, tráng ca. “Tây Tiên” còn nổi bật với những câu thơ nhất mực tài hoa, với vẻ đẹp lãng mạn, cổ điện. Hồn thơ Quang Dũng sống trong không khí hiện đại nhưng vẫn được tiếp nhận những phong vị cổ điển. Câu thơ của tác giả mang những phong vị tài hoa rất riêng.Hãy lắng nghe những câu thơ:“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”Thơ viết về nỗi nhớ từ xa xưa đến nay khó mà kể xiết. Nhưng ít có bài thơ nào mà nỗi nhớ lại được biểu đạt bằng những chữ lạ và ám đến vậy! Người đọc “Tây Tiến” làm sao quên được chữ “nhớ chơi vơi”. “Chơi vơi” là trạng thái của nỗi nhớ hay của cảnh vật được nhớ? Nó là cái chông chênh hụt hẫng của kẻ đang phải lìa xa nơi mình từng gắn bó hay là cái trập trùng xa ngát của núi rừng miền Tây? Thật khó tách bạch! Cả hai chủ thể và đối tượng dường như đã trộn lẫn vào nhau mà đồng hiện trong một chữ “chơi vơi” ấy. Có phải đó là cái trạng thái chập chờn rất riêng của nỗi nhớ chăng?“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”Chữ “Nhớ ôi” nghe mới nôn nao, nghèn nghẹn thế nào! Không phải “ôi nhớ” như lối cảm thán cũ mòn ; cũng không phải “nhớ ôi là nhớ” thật thà, khẩu ngữ hay “nhớ ôi” như tiếng gọi hướng ra người mà là “nhớ ôi” như tiếng kêu hướng về mình. Ta nghe rõ trong lời thơ một nỗi nhớ nhung bất chợt cồn lên. Kẻ nhớ không thể cầm lòng đã vỡ òa thành tiếng kêu than nhưng “buột miệng ra mà dư vang súc tích”. Lê Đạt từng nói: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Quang Dũng là một người như thế. Ông đã tạo ra một nét nghĩa táo bạo mà thật đa tình trong tập hợp từ mới mẻ: “mùa em”. “Mùa em” khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với những kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa, của tình quân dân sâu nặng mà còn gợi nhớ hình ảnh những cô gái duyên dáng miền sơn cước. Rồi đây, Tây Tiến sẽ mờ dần sau những thăng trầm lịch sử nhưng tiếng kêu kia vẫn sẽ còn gieo vào lòng người đọc mai sau những bồi hồi một thuở.Nếu nói: “Phần chìm dưới câu chữ thường lại là chỗ cất cao, là ánh kim sa của những sáng tạo nghệ thuật” (Nguyễn Thanh Hùng) thì chính là cần đoạn thơ của Quang Dũng để minh chứng:“Người đi Châu Mộc chiều sương ấyCó thấy hồn lau nẻo bến bờCó thấy dáng người trên độc mộcTrôi dòng nước lũ hoa đong đưa”Một từ “chiều sương” thôi mà gợi được cả thời gian và không gian. Cổ thi mỗi khi nhắc đến chiều, đến sương là một nỗi buồn thiên cổ, là nỗi hoài cổ ngàn năm gợi về: “Dặm liễu sương sa khách bước dồn. (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng câu thơ của Quang Dũng lại cho ta một cảm giác rất nhẹ nhàng, bình yên. Một từ “ấy” vô danh nhưng lại hữu ý. Từ “ấy” vô danh vì nó gợi nhắc đến một thời gian nào đó, đôi khi cả chủ thể cũng không thể xác định được: là “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn” (Xuân Diệu), là “Từ ấy”, “Mười lăm năm ấy” trong hồi ức của Tố Hữu. Nhưng đó cùng là ngày không thể lẫn vào đâu trong muôn vàn buổi chiều vô danh khác trong đời: buổi chiều mang tên kỉ niệm, mang theo nỗi nhớ. Nhà thơ chỉ mất một ít rõ ràng nhưng nhận lại bao la những ý nghĩa. Không phải là “cây lau”, “ngọn lau” hay “phận lau” như TS Chu Văn Sơn dùng trong bài tùy bút: “Phận hoa bên lề” mà là “hồn lau”. Cái “hồn” xưa mà Bà Huyện Thanh Quan đã viết: “hồn thu thảo” làm cho câu thơ không chủ đích tả mà gợi, không chủ ý vẽ mà khơi. Không thấy được hình dáng của ngọn lau nhưng có thể cảm nhận được linh hồn riêng của đại ngàn Tây Bắc. Cảnh theo lời thơ mà tan ra. Một chút rõ ràng mất đi mà thêm rất nhiều thơ mộng. Câu thơ cuối làm hiện ra bóng dáng duyên dáng, uyển chuyển của người con gái Thái giữa cảnh thiên nhiên mộng mơ, yên bình. Hình ảnh “hoa” không chỉ gợi về hình ảnh xứ sở Tây Bắc ngàn hoa mà còn là hình ảnh của cái đẹp. “Hoa đong đưa” là đang làm duyên với gió, với nước khi đã nở trọn đời hoa để buông mình? Hay đó là hình ảnh ẩn dụ của cái đẹp, của người con gái đang tình tứ mà kín đáo làm duyên. Câu thơ có cái duyên của cảnh, duyên dáng của người và phải chăng còn là đôi mắt tình tứ của người ngắm cảnh nữa?Nhưng nét độc đáo nhất, đặc biệt nhất của Tây Tiến chính là nét hào hùng và hào hoa, cái chất đời rất lính và phong vị lãng mạn cổ điển không bao giờ tách bạch mà hòa vào nhau trong những câu thơ, đoạn thơ để làm nên một bài thơ tuyệt bút. Đọc thơ Quang Dũng mà như thưởng tranh, thưởng nhạc vậy:“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm” có 7 chữ mà tới 5 chữ là thanh trắc cùng điệp từ “dốc”, các từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” đã gợi tả hình ảnh con đường hành quân với những đèo dốc quanh co, gập ghềnh, lên cao mãi. Từ láy “heo hút” gợi về cảm giác xa xôi, hẻo lánh. Đặc biệt, nhà thơ không phải người sao chép cuộc sống vào trang thơ mà mỗi chữ đều là sự sôi sục “đãi quặng tìm vàng” (Maiacopxki), để “lượm lặt” trên luống cày đời sống, ấp ủ và gieo lên thành những đóa hoa thơ tuyệt đẹp. Những chữ lấp lánh ấy vừa khiến người ta bất ngờ lại vừa gây hứng thú: “cồn mây”. Không phải áng mây phiêu du hay chòm mây phiêu lãng mà lại là “cồn mây” mờ mịt nơi cửa ải xa: “mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ). Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” mới độc đáo và thú vị làm sao. Đến câu thơ tiếp theo lại được ngắt đột ngột làm đôi, vẽ ra hai chặng đường hành quân. Điệp ngữ “ngàn thước” cùng nghệ thuật đối lập “lên cao- xuống” đã gợi tả độ sâu của vực đầy dữ dội, hiểm trở. Thì ra đọc thơ Quang Dũng không chỉ như ngậm nhạc trong miệng mà còn như được thưởng tranh. “Thi trung hữu họa, thi trung hữu nhạc” là vì thế. Nếu câu thơ trên trắc trở bao nhiêu thì câu thơ dưới lại mềm mại bất nhiêu, câu thơ trên cheo leo bao nhiêu thì dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu, cảnh trên hiểm trở bao nhiêu thì cảnh hiện thời lại êm đềm bấy nhiêu: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Tâm hồn thảnh thơi được trải ra theo những âm bằng suốt cả câu thơ rồi.Hay hai câu thơ về hình ảnh người lính:“Mắt trừng gửi mộng qua biên giớiĐêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”Câu thơ trên gân guốc bao nhiêu thì hai câu thơ dưới lại nhẹ nhàng bấy nhiêu! Nếu ở trên tác giả thay “mắt trừng” bằng “bâng khuâng” thì câu thơ dưới sẽ giảm hẳm nét mềm mại và chi tiết được nêu lên mất đi tính tinh lọc và quý hiếm của nó. Câu thơ có cái “mộng” của người anh hùng mang theo lửa rực căm thù và khát khao lập công nhưng vẫn giữ cho mình chút “mơ” của giai nhân. Tác giả không dùng từ “nhớ” : nỗi nhớ của người lính nông dân về “giếng nước gốc đa” (“Đồng chí”), về “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya” (“Nhớ”) hay cái nhớ của Nguyễn Đình Thi “Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”, … Vì “nhớ” thiên về tâm trạng – cụ thể còn “mơ” là dấu tích của tâm hồn – mơ hồ . “Dáng kiều thơm” ấy chính là vầng sáng lung linh trong kí ức, “tố cáo” nét đa tình và đời sống tình cảm dạt dào của người lính, vốn thường bị che phủ trong kháng chiến.Hiệu quả càng được nâng lên khi nhà thơ con thể “Cổ phong trường thiên” (một thể loại hành) để những tình cảm, cảm xúc không bị bó buộc mà có thể trải dài theo đầu ngọn bút, trong những con chữ. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc nhưng khi được ứng hiện vào nhau trong sự sắp xếp của Quang Dũng lại đem đến hiệu quả không ngờ. Nếu nói “thi trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc” thì “Tây Tiến” là một dẫn chứng tiêu biểu. Với sự tài hoa trong cách sử dụng và sáng tạo từ ngữ, Quang Dũng khiến người đọc như “ngậm nhạc trong miệng”, như thưởng tranh trong chữ. Bút pháp hiện thực đi liền với lãng mạn đã làm nên vẻ đẹp hào hùng, bi tráng cho những câu thơ. Đó chính là phong vị rất riêng của thơ Quang Dũng: vừa dung dị, vừa bay bổng, không đẽo gọt cầu kì mà mới lạ đến đáng ngạc nhiên! Nhưng tài năng sẽ chẳng để làm gì nếu không dụng “chân tâm” để viết. Quang Dũng đã có cả được điều đó. “Tây Tiến” tràn đầy nỗi nhớ, hay nói đúng hơn chính là nỗi nhớ. Đó cũng có thể coi là lời nguyện ước của một thế hệ thanh niên sẵn sàng hiến dâng cả tuổi xanh của mình cho đất nước thân yêu.Bằng những câu thơ ấy, Quang Dũng đã góp vào dòng chảy văn học những hình tượng cũng như ngôn ngữ tuyệt đẹp. Nhà văn tồn tại trên đời chẳng phải để “làm rõ mình” để rồi lại “xóa mình”, bất tử trong tâm hồn bạn học mọi thế hệ như thế sao...Viết bởi Bỉ Ngạn, diễn đàn VFO

Tính dân tộc trong "Việt Bắc" của Tố Hữu

“Bàn về tính dân tộc trong văn học nghệ thuật, nhà nghiên cứu người Nga A.Tôn xtoi đã từng nhận định: “Nghệ thuật dân tộc là nghệ thuật mang mùi hương đất đai, trong tiếng mẹ đẻ mỗi từ dường như có hai lần ý nghĩa nghệ thuật…”. Quan điểm đó rất đúng bởi vì tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm riêng của cá nhân nghệ sĩ, nhưng đằng sau mỗi người nghệ sĩ bao giờ cũng mang bóng dáng của dân tộc, giai cấp mà họ đang sống. Vậy nên tinh thần dân tộc luôn thấm đẫm trong từng câu chữ, trong cách cảm cách nghĩ của mỗi nhà văn, nhà thơ. Và cũng chính đặc thù của đời sống dân tộc đã mang lại cho văn học của dân tộc ấy một bản sắc riêng độc đáo được bảo tồn lưu giữ qua nhiều thế hệ.”Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm tập thơ của ông phản ánh những chặng đường của lịch sử dân tộc. “Từ ấy” là tập thơ đầu tay ghi lại quá trình giác ngộ và trưởng thành của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi. Tiếp theo, tập “Việt Bắc’’ được ra đời trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tập thơ là một bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc. Tập “Gió Lộng’’ đánh dấu một bước phát triển của thơ Tố Hữu khi viết về hai nhiệm vụ của dân tộc là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh chống Mĩ ở miền Nam. Và giọng thơ anh hùng ca càng được nhà thơ thể hiện rõ ở hai tập “Ra trận’’, “Máu và hoa’’. Cuối cùng, tập thơ “Một tiếng đờn’’ là những dòng tâm tư trăn trở của tác giả trong thời kỳ đất nước đã hòa bình.Xét về mặt nội dung thì bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện được những vấn đề nóng bỏng mang vận mệnh dân tộc; thể hiện được hình ảnh con người Việt Nam trong kháng chiến. Đẹp nhất là hình tượng Bác Hồ. Người là kết tinh tinh hoa dân tộc:“Nhớ ông cụ mắt sáng ngờiÁo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”Nhà thơ Tố Hữu gọi Bác là “Ông cụ” nghe sao gần gũi thân thương mà ấm áp bao ân tình. Tấm “áo nâu” mà Bác mặc thường ngày là hình ảnh gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam đều dành cho Bác tình cảm trân trọng, ngưỡng mộ, biết ơn, luôn hướng về Bác với một niềm tin mãnh liệt:“Ở đâu u ám quân thùNhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi”Bác Hồ đã trở thành điểm quy tụ mọi suy nghĩ, tình cảm của nhân dân.Sáng tác bài thơ “Việt Bắc”, Tố Hữu không chỉ thay lời nhân dân nói nên lòng biết ơn với Đảng, với Bác kính yêu mà ông còn thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng với nhân dân Việt Bắc. Trong tâm tư của người ra về còn in sâu hình ảnh áo chàm giản dị mà thủy chung. Trong 15 năm chung sức chung lòng, người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua bao gian khó đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến bến bờ của sự thành công:“Mười lăm năm ấy ai quênQuê hương cách mạng dựng lên cộng hòa”Tố Hữu ca ngợi tình cảm thủy chung sắt son của người dân Việt Bắc và người chiến sĩ cách mạng chính là ca ngợi truyền thống: “uống nước nhớ nguồn”; truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã thể hiện được tính chất của cuộc kháng chiến chống Pháp là toàn dân toàn diện. Với sự tham gia của nhiều lực lượng, không phân biệt già, trẻ, trai, gái ai ai cũng mong muốn được góp phần mình cho kháng chiến. Nối tiếp những đoàn quân ra trận là những đoàn dân công với nhiệm vụ tiếp tế lương thực, đạn dược ra chiến trường. Tất cả vì tiền tuyến:“Quân đi điệp điệp trùng trùngÁnh sao đầu súng bạn cùng mũ nanDân công đỏ đuốc từng đoànBước chân nát đá muôn tàn lửa bay”Khí thế của cả dân tộc cùng ra trận thật hào hùng, mãnh liệt, không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Họ ra trận với một tinh thần yêu nước, niềm tin tưởng ở ngày mai tất thắng.Bài thơ “Việt Bắc” còn đánh dấu sự thành công của Tố Hữu ở phương diện nghệ thuật mang đậm tính dân tộc biểu hiện ở thể thơ, ngôn từ, nhạc điệu, hình ảnh. Tố Hữu vốn là người xứ Huế - nơi có những làn điệu dân ca ngọt ngào. Những lời ru của mẹ đã thấm vào tâm hồn thơ Tố Hữu, đi vào trang thơ của ông. Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát với lối kết cấu đối đáp như câu hát giao duyên của đôi trai gái yêu nhau. Vì thế câu chuyện chính trị đã được tác giả chuyển hóa giống như câu chuyện tình yêu đôi lứa. Nó không khô khan mà ngọt ngào tình tứ đã giúp nhà thơ thể hiện được tình cảm thiết tha của người đi (cách mạng) và kẻ ở (Việt Bắc) trong buổi chia tay đầy bịn rịn, lưu luyến:“Mình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”Đọc thơ Tố Hữu, ta rất ấn tượng với cách sử dụng cặp đại từ “mình”, “ta” giống như của ca dao xưa. Người cách mạng và đồng bào Việt Bắc đã coi nhau như những người bạn đời gắn bó tri kỉ trong suốt 15 năm. Vì thế đại từ “mình” và “ta” được nhà thơ vận dụng rất linh hoạt, có lúc phân định rõ nhưng có lúc “ta” và “mình” lại hòa làm một. Điều này nói lên sự gắn bó sâu nặng giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến.Tính dân tộc trong thơ Tố Hữu còn được thể hiện qua âm điệu của bài thơ. Bài thơ rất giàu nhạc điệu bởi hệ thống từ láy giàu giá trị tượng thanh như “rầm rập”, những điệp từ “nhớ”, “vui”… nghệ thuật liệt kê và nghệ thuật tiểu đối tạo tính cân xứng cho câu thơ.Nhận xét về thơ Tố Hữu, nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh’’. Thật vậy, đọc bài thơ Việt Bắc, ta bắt gặp những hình ảnh như “củ khoai”, “củ sắn”, “bờ lau” rất đỗi bình dị nhưng qua cách diễn đạt tài tình của nhà thơ, những hình đó lại trở thành hình tượng biểu tượng cho cuộc sống còn nhiều khó khăn vất vả của đồng bào Việt Bắc nói riêng, của toàn dân tộc nói chung trong những ngày đầu của cuộc chiến chống Pháp đầy gian khổ.Tóm lại, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc bằng tất cả tấm lòng chân thành hướng về Đảng, về cách mạng, về nhân dân. Bài thơ giúp ta cảm nhận được nhiều phẩm chất đáng quý của con người Việt Nam: yêu nước, tương thân tương ái, đoàn kết, lạc quan, thủy chung son sắt; thấy được bản sắc văn hóa dân tộc mình. Đọc thơ Tố Hữu, ta thêm yêu quê hương, Tổ quốc mình. Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu xứng đáng là một kiệt tác của dòng văn học cách mạng Việt Nam.

Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà (Người lái đò sông Đà)

️Sự hung bạo của Đà giang đã được Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo, lắm thác nhiều ghềnh: “Đường lên Mường Lễ bao xa Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh” (Ca dao) Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, một dòng chảy riêng, không khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập quốc tịch Việt Nam. Nó phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác thường của dòng sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng sông như được mở rộng ra, con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt và sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của núi rừng Tây Bắc. ️ Cảnh đá bờ sông Cái hùng vĩ, sừng sững của sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập cho tan xác mà thôi. Nguyễn Tuân cho người đọc cảm nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với những vách đá dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng ở dưới một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn. ️Cảnh mặt ghềnh Hát Loóng Cũng như đá bờ sông, thì“quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua quãng đấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ nào trực tiếp tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của con người. Với nghệ thuật nhân hóa con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm đúng vị trí Hát Lóong. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, với ghềnh thác của sông Đà. ️Cảnh những cái hút nước Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước biết thở và kêu nghe đã đủ cho người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cái bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng sâu cho thấy độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy rùng rợn mà chính người đọc cũng như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền men qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào trực cảm của người đọc. Cho cảm giác thật đến từng mi-li-met nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít. Nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn Tuân. Cảnh những cái thác nước Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ hơn! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy ấy lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy nó va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, liên hoàn như âm thanh vang na não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế - kẻ thù số một của con người. Cảnh những trùng vi thạch trận đá Phối hợp với sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng miêu tả.  Trùng vi thứ nhất: Sông Đà bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính để tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não nạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, ông lái đã vượt qua dễ dàng.  Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Bọn đá, sóng nước dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!  Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boong-ke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan cái thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt. Chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa, vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với “tay lái ra hoa”. Con Sông Đà như một loài thủy quái, hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo oán đời đời đánh ghen." ️ Đặc sắc nghệ thuật khi miêu tả cong sông Đà hung bạo  Viết về Đà giang, ngòi bút của NT vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái Đò Sông Đà” được viết bằng thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện. Có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Có đôi lúc, ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.” Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan để kích thích trí tưởng tượng của độc giả. Bởi vậy, con sông Đà hiện lên là một nhân vật có tính cách và ngôn ngữ. Một nhà thơ Ba Lan có lần đã từng viết:“Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”Ở đây, ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng và của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang ở những hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sông La: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy sự hung bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn cái ngấn nước ở cổng châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai cùng gỗ Chò Vẩy, Chò Hoa trôi lềnh bềnh trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà chẳng khác nào “kẻ thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, tâm địa độc ác đến tột cùng.  Con sông Đà hung bạo đâu bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực xoáy mà Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, ta thấy những con sông hầu như đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua. Nếu “sông Hương” của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì con sông Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân – một phong cách rất “ngông”.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà (Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân)

Nguyễn Tuân miêu tả hình dáng sông Đà nhìn từ trên cao xuống để phát hiện ra vẻ đẹp tòan diện của con sông, thơ mộng, mềm mại và đẹp ngay từ hình dáng. Từ trên cao, tác giả nhìn thấy con sông Đà dài như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo dưới chân mình. Nó biết mềm mại, uốn lượn qua các dãy núi, triền đồi, các ghềnh thác để làm cho mình trở nên dịu dàng, nữ tính. Sông Đà đâu chỉ lắm thác nhiều ghềnh đầy hiểm nguy cho người lái đò mà còn đậm nét thơ mộng, trữ tình: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Một câu văn với nghệ thuật kết cấu trùng điệp và cách so sánh liên tưởng gần gũi, sông Đà đã hiện lên như một cô thiếu nữ của mảnh đất Tây Bắc đẹp e lệ, dịu dàng. Cô gái ấy có mái tóc tuôn dài, mềm mại. Mái tóc ấy lại được ẩm hiện trong mây trời của Tây Bắc, của khói sương mờ ảo khi người dân đốt nương làm rẫy vào mùa xuân với những chùm hoa ban với sắc trắng, sắc tím và màu đỏ tươi của hoa gạo tháng ba – phảng phất vị Đường thi. Nếu nhìn và cảm nhận, con sông hiện lên hiền hòa và dịu dàng như một cô gái đang e lệ với mái tóc dài buông xõa, trên mái tóc đen óng ả ấy cài điểm những bông hoa ban, hoa gạo sặc sỡ sắc màu, và cô thẹn thùng che mặt bằng một tấm khăn voan mỏng manh màu trắng khi bước những bước chân ngập ngừng, e ấp về nhà chồng. Còn gì đẹp, thơ mộng và trữ tình hơn khi ví dòng sông Đà với hình ảnh một cô thiếu nữ đang thẹn thùng cất bước chân về nhà chồng. Ngòi bút của Nguyễn không chỉ thể hiện sự tài hoa mà còn là sự tinh tế thông qua sự liên tưởng độc đáo và cách so sánh trùng điệp, một cách so sánh tài hoa, đượm chất phong tình. Hơn nữa, nếu để ý hẳn độc giả bạn đọc sẽ nhận thấy trong thơ ca cổ trung đại, các bậc tao nhân thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho con người. Làm sao quên được hình ảnh: “Cổ tay em trắng như ngàĐuôi mắt em sắc như là dao cauNụ cười như thể hoa ngâuCái khăn đội đầu như thể hoa sen”Ngược lại, đến với Nguyễn, con người là chuẩn mực để so sánh. Ông kéo thiên nhiên lại gần với con người. Với Nguyễn Tuân, con người là trung tâm của vũ trụ, là một tiểu vũ trụ. Vì vậy, ông nhìn sông Đà như áng tóc của người thiếu nữ. Màu nước sông Đà Nước Sông Đà còn thay đổi theo mùa, nó đẹp nhất là mùa xuân và mùa thu: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượubữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn tả sắc xanh của nước sông Đà cũng lạ lẫm, màu xanh ngọc bích, sắc xanh trong vắt như pha lê, ngọc thạch mà mắt người có thể nhìn thấu đáy. Để thấy được sắc xanh như màu xanhcủa sông Đà là hiếm và khác biệt với nhiều dòng sông khác Nguyễn Tuân đã so sánh màu sắc của nước sông Đà với màu nước của sông Gâm, sông Lô là màu xanh đục lờ lờ canh hến. Sắc nước mùa thu của sông Đà tựu thân nó không thể coi là đẹp nhưng cái đẹp đáng nói ở đây chính bởi sự làm duyên của con sông. Mùa thu nước sông Đà dần thay màu, nó lừ lừ và rồi chín đỏ như mặt người đang tím bầm vì rượu bữa, hoặc của một người đang bất mãn, đang bực bội mỗi độ thu về. Xanh trong, dịu dàng là thế vào mùa xuân mà lại chuyển ngay sang sắc tím đỏ giận dỗi vào mùa thu. Thế mới biết tính khí của con sông kia cũng thất thường lắm, dịu dàng đấy mà giận dỗi được ngay. Không chỉ có tính cách đa dạng mà chúng ta thấy sông Đà hiện lên như một cô gái biết trưng diện, biết điệu đà bởi mỗi mùa cô ấy tự thay tấm áo đã cũ màu, khoác cho mình tấm áo mới, luôn luôn thay đổi, luôn tự làm mới mình để đẹp hơn, hấp dẫn hơn. Con sông Đà gợi cảm Con Sông Đà gợi cảm với vẻ đẹp của nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, làm cho người đi rừng dài ngày bất ngờ gặp lại con sông“vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Với nghệ thuật sosánh cụ thể Nguyễn đã cho người đọc thấy được tình cảm, cảm xúc của mình đối với con sông của miền tây tổ quốc, không chỉ đơn thuần là cảm xúc của một con người đối với một con sông mà đó là xúc cảm của những “cố nhân” sau bao ngày xa cách. Niềm vui ấy như tiếng cười giòn tan trong ánh nắng của mặt trời bừng chói sau một kì mưa dầm ẩm ướt, hay như một giấc chiêm bao ngọt ngào nhưng ta choàng tỉnh giấc và giờ đây lại được nối lại. Niềm vui của sự hân hoan và mãn nguyện sau bao nỗi đợi chờ.Sông Đà với Nguyễn như một “cố nhân”, nhưng khổ nỗi cố nhân này lại “lắm bệnh lắm chứng, chốc dịu dàng đấy rồi chốc lại bẳn tính, thác lũ, gắt gỏng ngay đấy”. Ấy thế mà khi được gặp lại cố nhân lại trào dâng một cảm giác đằm đằm, ấm ấm. Phải chăng bởi con sông kia quá gợi cảm và quyến rũ. Nét quyến rũ của một “người tình nhân chưa quen biết”. Cảnh sắc hai bên bờ sông Sông Đà còn có những khoảng không gian, những cảnh sắc đầy thơ mộng: “Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Cái lặng lẽ của thanh bình, yên ả mà có lẽ bất cứ một tâm hồn khó tính nào cũng muốn ở trọ nơi đây. Có những cảnh hoang vu, hoang sơ đến kì lạ: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Chút hoang dại của lịch sử đất nước thời khai thiên lập địa, chút hồn nhiên của tuổi thơ với bao mơ mộng gửi theo những câu chuyện cổ tích mà mẹ, bà thường hay kể, tất cả lại về đây hội tụ trên bờ sông Đà vừa hoang vu, vừa hồn nhiên, thơ trẻ. Cảnh sông Đà còn là “những nương ngô nhú lên những lá ngô non đầu mùa, những cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn cỏ gianh đẫm sương đêm”. Một cảnh thơ mộng, tuyệt đẹp trong mùa xuân với sự sống đang cựa mình, sinh sôi. Thực và mộng chảy tràn vào nhau. Trong lúc đang thưởng thức cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tuyệt đẹp như thế, nhà văn bỗng cảm thấy“thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu”, được đánh thức bởi sự hiện diện của con người. Thiên nhiên tuy đẹp đấy nhưng hoang sơ, “tịnh không một bóng người”, “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa” mà không có ai chăm sóc, mà dường như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng vắng lặng như thế mà thôi. Từ quá khứ nhà văn trở về với hiện tại và hướng tới tương lai đẹp đẽ. Đất đai ở đây sẽ có con người khai phá, đường xá sẽ được mở, những ngôi làng thị trấn sẽ được mọc lên, khắp nơi đều đầy ắp tiếng cười. Rõ ràng cảnh vật nếu không có con người thì vẫn chỉ là hoang sơ, tẻ nhạt mà thôi! Đang mộng mơ bên cảnh sông Đà, Nguyễn Tuân có mối giao cảm kì lạ với loài vật: “Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: Hỡi ông khách sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Con vật hỏi người hay chính người đang say trong cảnh mộng mà tự hỏi mình. Cảnh sông Đà thơ mộng là thế, có những khoảng lặng diệu kì khiến con người ta rơi vào cảm giác thần tiên để rồi tiếng đập nước của “đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi đuổi mất đàn hươu vụt biến” đánh thức người đang mộng. Nguyễn Tuân đã dùng cái động để tả thật tài tình cái tĩnh lặng kì diệu. Trở về với thực tại, lênh đênh trên dòng nước xanh ngọc đẹp đẽ, phẳng lặng, nhà thơ có sự đồng điệu trong cảm xúc về sông Đà như Tản Đà khi trước: “Dải sông đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của “một người tình nhân chưa quen biết”. Con sông Đà như một sinh vật có linh hồn, dòng nước trôi lững lờ “như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn, như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi”. Con sông trở nên hiền hòa và thơ mộng, nó “trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”. Đó là niềm mong ước của nhà văn nửa muốn gìn giữ những nét nguyên sơ của con sông, nửa muốn cải tạo mà khai phá nó để phục vụ con người – đó phải chăng cũng là lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn? Đà giang hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân thơ mộng, lãng mạn, trữ tình đồng thời vô cùng kiều diễm. Nếu ở đoạn văn trên, Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà hung bạo với những kiến thức nền chủ yếu là quân sự hay võ thuật cùng những câu văn ngắn, nhiều động từ, nhiều thanh trắc thì đến đoạn văn này, Nguyễn Tuân chủ yếu sử dụng kiến thức du lịch, kiến thức lịch sử và kiến thức văn học với câu văn vươn dài ra như nhịp chèo khoan thai của “thuyền tôi trôi trên sông Đà”. Nếu để ý, người yêu văn hẳn sẽ nhận thấy có đến 14 câu văn Nguyễn Tuân kết thúc toàn với thanh bằng để tạo cảm giác mênh mang mềm mại. Người yêu văn có thể dễ dàng chuyển thẳng những đoạn văn Nguyễn Tuân viết về dòng sông Đà ở hạ lưu thành những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Phong cách Nguyễn Tuân này trước cách mạng ta chỉ bắt gặp ở nhà văn Thạch Lam với lối viết truyện không mâu thuẫn, không kịch tính, không gay cấn, truyện như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Đến đây, ta lại bắt gặp ở nhà ngôn ngữ tài ba Nguyễn Tuân một phong cách nghệ thuật tương tự.