Dưới đây là cách mở bài ở bài Nghị luận văn học bằng nhận định hay nhất do cô Minh Hương - giáo viên Ngữ Văn tại AT School viết: 1."Thơ ca là tiếng vọng của tâm hồn, là nơi con người tìm về để sẻ chia và đồng cảm." (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam). Tác phẩm B của nhà thơ A tựa như một dòng suối trong lành, khẽ khàng len lỏi vào lòng người, đánh thức những rung cảm tinh tế nhất, đưa ta chạm đến vẻ đẹp bất tận của tâm hồn. TTKh2. "Thơ ca là tiếng đàn muôn điệu của trái tim, ngân lên những cung bậc trầm bổng của cuộc đời" (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam). Trong bài thơ B, nhà thơ A đã dệt nên một khúc nhạc của cảm xúc, vừa tha thiết vừa sâu lắng, dẫn người đọc vào một thế giới đầy màu sắc của tình cảm và suy tư.3. "Thơ ca không chỉ là tiếng nói của lý trí mà còn là những giai điệu thăng hoa của trái tim." (Nguyễn Đình Thi)Với bài thơ B, nhà thơ A đã để trái tim cất lên tiếng hát chân thành, vừa mãnh liệt, vừa sâu sắc, chạm đến những tầng sâu nhất của cảm xúc.4. "Thơ ca là ánh sáng nhiệm màu soi rọi vào những góc khuất của tâm hồn con người." (Nguyễn Đình Thi)Tác phẩm B của nhà thơ A tựa như một tia sáng rực rỡ, không chỉ khơi gợi cảm xúc mà còn lan tỏa những giá trị cao đẹp, giúp người đọc sống sâu sắc hơn trong từng khoảnh khắc.5. "Thơ ca là đôi cánh bay lên từ thực tại để chạm vào những giá trị vĩnh hằng" (Xuân Diệu) Với bài thơ B, nhà thơ A đã mở ra một thế giới vừa giản dị, vừa diệu kỳ, nơi mỗi câu chữ đều mang đến những rung động sâu sắc và khát vọng vượt thoát khỏi thực tại đời thường.6. "Thơ ca không chỉ phản ảnh đời sống, mà còn làm đời sống trở nên lung linh, rực rỡ." (Xuân Diệu) Trong bài thơ B, nhà thơ A đã biến những điều bình dị của cuộc đời thành những hình ảnh thơ giàu chất nhạc, chất họa, chạm đến trái tim người đọc bằng vẻ đẹp kỳ diệu của ngôn từ.7. “Thơ là một hành trình từ hiện thực đến những khát vọng bất tận của con người.” (Tố Hữu). Với bài thơ B, nhà thơ A đã dệt nên những vần thơ vừa chân thực, vừa lãng mạn, mở ra một thế giới cảm xúc sâu sắc và đầy ý nghĩa. TTKh8. “Thơ ca là dòng sông cảm xúc, nơi những khát vọng, tình yêu và suy tư hòa quyện.” (Nguyễn Văn Hạnh). Trong bài thơ B, nhà thơ A đã để dòng cảm xúc của mình tuôn chảy, dẫn dắt người đọc vào một hành trình khám phá những góc khuất tinh tế trong tâm hồn.9. “Thơ là nơi cảm xúc thăng hoa, biến những điều giản đơn nhất thành vĩnh cửu.” (Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam). Tác phẩm B của nhà thơ A như một khúc hát dịu dàng, vừa nâng niu những điều nhỏ bé của đời sống, vừa mở ra những ý niệm sâu sắc về tình yêu và khát vọng.10. “Thơ là nơi con người đối diện với chính mình, là tiếng lòng sâu lắng trước cuộc đời.” (Huy Cận). Với bài thơ B, nhà thơ A đã gửi gắm những suy tư trầm lặng, khơi gợi nỗi niềm và sự đồng điệu trong lòng người đọc, tạo nên một tác phẩm vừa sâu sắc vừa đầy tính nhân văn. Bài viết thuộc bản quyền của Học Văn cô Minh Hương.Vui lòng ghi nguồn khi chia sẻ bài viết!
1. MỞ BÀIMở bài cần ngắn gọn, thu hút và giới thiệu trực tiếp đến câu danh ngôn. Có thể áp dụng một trong các công thức sau:Công thức 1: Dẫn dắt từ thực tế → Giới thiệu câu danh ngôn• Cách viết: Bắt đầu bằng một vấn đề nổi bật trong cuộc sống, rồi liên hệ trực tiếp đến câu danh ngôn.Ví dụ: Trong cuộc sống, mỗi người đều cần một ánh sáng để dẫn lối, một kim chỉ nam để hướng về tương lai. Chính vì thế, người xưa đã từng nói: “Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời.” (Bê-lin-xki).Câu nói ấy đã nhấn mạnh tầm quan trọng của lý tưởng trong tuổi trẻ - quãng thời gian đẹp nhất và ý nghĩa nhất của đời người.Công thức 2: Dẫn dắt từ câu chuyện hoặc hình ảnh → Giới thiệu câu danh ngôn• Cách viết: Kể ngắn gọn một câu chuyện, hình ảnh liên quan rồi kết nối với câu danh ngôn.Ví dụ: Hãy tưởng tượng một buổi sáng không có mặt trời, vạn vật chìm trong u ám và lạnh lẽo. Tuổi trẻ cũng vậy, nếu không có lý tưởng, cuộc sống sẽ mất đi ánh sáng và sức sống. Như câu danh ngôn từng nói: “Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời.” (Bê-lin-xki).Câu nói ấy chính là một lời nhắc nhở sâu sắc về vai trò của lý tưởng đối với tuổi trẻ.Công thức 3: Trích dẫn trực tiếp câu danh ngôn → Giải thích ý nghĩa• Cách viết: Bắt đầu bằng câu danh ngôn, sau đó giải thích ngắn gọn ý nghĩa.Ví dụ: “Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời.” (Bê-lin-xki). Câu danh ngôn ngắn gọn nhưng hàm chứa bài học sâu sắc về tầm quan trọng của lý tưởng. Đó là ánh sáng soi đường, là động lực giúp mỗi người vượt qua thử thách để vươn tới tương lai. 2. KẾT BÀIKết bài là nơi tổng kết lại vấn đề và để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Có thể áp dụng các công thức sau:Công thức 1: Tổng kết ý nghĩa câu danh ngôn → Liên hệ thực tế• Cách viết: Khẳng định giá trị của câu danh ngôn và nhấn mạnh tầm quan trọng của bài học trong thực tế.Ví dụ: Câu danh ngôn “Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời” (Bê-lin-xki) không chỉ nhắc nhở chúng ta về giá trị của lý tưởng mà còn thôi thúc mỗi người trẻ hãy tìm kiếm và xây dựng lý tưởng cho riêng mình. Bởi chỉ khi có lý tưởng, cuộc sống mới tràn đầy ý nghĩa và tương lai mới rộng mở.Công thức 2: Đánh giá → Gợi mở suy nghĩ cho người đọc• Cách viết: Đưa ra cảm nhận cá nhân hoặc đặt câu hỏi để khơi gợi suy nghĩ.Ví dụ: Tuổi trẻ là thời gian đẹp nhất để theo đuổi ước mơ, để kiến tạo tương lai. Vậy bạn đã tìm thấy lý tưởng của mình chưa? Đừng để tuổi trẻ trôi qua một cách lãng phí, hãy sống và cháy hết mình vì những điều bạn tin tưởng.Công thức 3: Liên hệ bản thân → Kết luận mở• Cách viết: Chia sẻ cảm nhận hoặc kế hoạch cá nhân, sau đó mở rộng vấn đề.Ví dụ: Với tôi, câu nói “Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời” (Bê-lin-xki) chính là kim chỉ nam, thôi thúc tôi không ngừng phấn đấu để hoàn thiện bản thân. Và tôi tin rằng, khi mỗi người trẻ đều có lý tưởng, thế giới này sẽ tràn đầy ánh sáng và hy vọng.Tóm lại:Mở bài: Dẫn dắt từ thực tế, câu chuyện, hoặc trích dẫn trực tiếp câu danh ngôn.Kết bài: Tổng kết ý nghĩa, liên hệ thực tế, hoặc gợi mở suy nghĩ để lại ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Bài viết thuộc bản quyền của Học Văn cô Minh Hương.Vui lòng ghi nguồn khi chia sẻ bài viết!
I. MỞ BÀINhà thơ Tố Hữu từng khẳng định: “Thơ là tiếng nói của trái tim, là tiếng hát của tâm hồn trước cuộc đời.” Thơ ca, tựa như nhịp đập của trái tim, nơi nhà thơ gửi gắm nỗi niềm, khát vọng và tình yêu mãnh liệt với cuộc sống. Đó là thứ nghệ thuật giản dị nhưng mang sức mạnh lớn lao, đánh thức những rung cảm sâu lắng trong lòng người đọc.Giới thiệu tác giả và tác phẩm:Trong nền thi ca Việt Nam, (tên tác giả) là một thi sĩ tài hoa, người đã góp vào kho tàng văn học nước nhà nhiều tác phẩm giàu ý nghĩa. Bài thơ (tên tác phẩm) là một trong những sáng tác tiêu biểu, chạm đến trái tim độc giả bởi vẻ đẹp của ngôn từ và cảm xúc, đồng thời thể hiện sâu sắc (nội dung chính: tình yêu quê hương, thiên nhiên, con người, triết lý sống…).Khơi gợi mạch cảm xúc chủ đạo:Đọc từng câu thơ, ta như bước vào một thế giới trữ tình đầy mê đắm, nơi cảm xúc của nhà thơ dội vào lòng người đọc như tiếng vọng của thời gian, của đời sống.II. THÂN BÀI1. Khái quát chung về tác giả và tác phẩm Giới thiệu về tác giả:Nhà thơ (tên tác giả) là người mang trong mình một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế. Thơ ông/ bà là sự kết hợp hài hòa giữa (phong cách sáng tác: lãng mạn, hiện thực hay giàu tính triết lý), thể hiện tình yêu cuộc sống, lòng trắc ẩn và khát khao hướng đến vẻ đẹp chân - thiện - mỹ.Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:Bài thơ (tên tác phẩm) được sáng tác vào (thời gian cụ thể nếu có), khi tác giả đứng trước (bối cảnh thiên nhiên, xã hội hoặc một cảm xúc dạt dào nào đó). Chính hoàn cảnh ấy đã khơi nguồn cảm xúc và trở thành chất liệu để nhà thơ viết nên những vần thơ đầy rung động.Chủ đề và cảm hứng:Với cảm hứng chủ đạo là (thiên nhiên, quê hương, tình yêu hay những giá trị nhân sinh…), bài thơ đã thể hiện những rung động mãnh liệt, vừa nhẹ nhàng, tinh tế, vừa chất chứa chiều sâu của tâm hồn thi nhân.Cô Minh Hương+ Câu chuyển đoạn: Từ bức tranh khái quát ấy, ta hãy cùng bước vào dòng chảy cảm xúc mà tác giả đã gửi gắm trong từng câu chữ của bài thơ. 2. Phân tích nội dung và nghệ thuật bài thơ a. Luận điểm 1: Mạch cảm xúc và cấu tứ bài thơ• Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh (sự vật, không gian cụ thể), như một lời dẫn đưa người đọc vào dòng cảm xúc của tác giả. Cảm xúc ấy cứ thế lan tỏa, nhẹ nhàng mà thấm thía, chuyển biến qua từng cung bậc: lúc êm đềm, lúc xót xa, lúc lại dâng trào mãnh liệt. TTKh• Cấu tứ bài thơ được triển khai một cách tự nhiên và tinh tế (theo trình tự từ ngoại cảnh đến nội tâm, từ hiện thực đến suy tưởng…), tạo nên sự hòa quyện giữa cảm xúc và ý tưởng, mở ra một bức tranh giàu ý nghĩa.+ Câu chuyển đoạn: Nếu mạch cảm xúc là nhạc điệu chính của bài thơ, thì từng câu chữ lại là những nốt nhạc ngân vang, đưa người đọc chìm đắm trong thế giới hình ảnh giàu sức gợi. b. Luận điểm 2: Phân tích từng khổ thơ, đoạn thơ cụ thểKhổ thơ đầu:• Những câu thơ mở đầu khắc họa (hình ảnh thiên nhiên, con người hay bối cảnh cụ thể) với ngôn từ tinh tế:“…” (dẫn chứng thơ).• Biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ) đã thổi hồn vào từng hình ảnh, gợi lên (vẻ đẹp trữ tình, cảm xúc trong trẻo hay nỗi niềm sâu lắng của tác giả).+ Câu chuyển đoạn: Khổ thơ mở đầu nhẹ nhàng như một tiếng dạo đầu, dẫn dắt người đọc vào không gian đầy xúc cảm của những câu thơ tiếp theo.Cô Minh Hương. Khổ thơ tiếp theo:• Cảm xúc được đẩy lên cao hơn qua những hình ảnh (thiên nhiên, con người, tâm trạng) cụ thể, chứa chan bao ý nghĩa:“…” (dẫn chứng thơ).• Tác giả đã khéo léo sử dụng (điệp từ, đối lập, nhịp điệu linh hoạt) để khắc họa rõ nét tâm tư và thông điệp gửi gắm trong thơ.+ Câu chuyển đoạn: Mạch cảm xúc ấy tiếp tục lan tỏa và lắng đọng trong khổ thơ cuối, để lại những dư âm khó quên trong lòng độc giả. Khổ thơ kết thúc:• Khép lại bài thơ là hình ảnh (tổng kết nội dung, cảm xúc hoặc triết lý sâu sắc):“…” (dẫn chứng thơ).Cô Minh Hương .• Khổ thơ cuối tựa như một nốt lặng trầm, gói trọn thông điệp nhân văn và tình cảm sâu sắc của nhà thơ. 3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Giá trị nội dung:Bài thơ đã thể hiện thành công (nội dung, chủ đề), mở ra những tầng ý nghĩa sâu xa về (tình yêu thiên nhiên, lòng trắc ẩn hay khát vọng sống…).Giá trị nghệ thuật:• Thể thơ (lục bát, thất ngôn…) mềm mại, hài hòa với mạch cảm xúc.• Ngôn từ giàu sức gợi, hình ảnh thơ tinh tế và gần gũi.• Biện pháp nghệ thuật như (ẩn dụ, điệp từ, đối lập) được vận dụng linh hoạt, tạo chiều sâu cảm xúc cho tác phẩm.+ Câu chuyển đoạn: Sự kết hợp hoàn hảo giữa nội dung và nghệ thuật đã làm nên vẻ đẹp bất tận của bài thơ, khiến nó trở thành một dấu ấn khó phai trong lòng độc giả. III. KẾT BÀI Khẳng định giá trị của bài thơ:Thi phẩm (tên tác phẩm- tg )với vẻ đẹp của ngôn từ và cảm xúc đã đưa người đọc đến với những cung bậc cảm xúc khác nhau, đồng thời gửi gắm những thông điệp đầy ý nghĩa.Mở rộng và liên hệ:Nhà thơ Xuân Diệu từng nói: “Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ, nhưng đồng thời là nhịp cầu nối liền trái tim với trái tim.” Đúng vậy, bài thơ (tên bài thơ) đã hoàn thành sứ mệnh cao cả ấy khi khơi dậy những rung động chân thành và đồng vọng mãi trong lòng độc giả.Câu kết đầy cảm xúc:Những vần thơ khép lại nhưng dư âm còn ngân vang mãi, như tiếng hát dịu dàng của tâm hồn, đưa ta về miền xúc cảm thẳm sâu, nơi ta gặp lại chính mình trong những điều đẹp đẽ nhất của cuộc đời. Bài viết thuộc bản quyền của cô Minh Hương TTKhVui lòng dẫn nguồn khi chia sẻ bài viết!
Tây Tiến là một tác phẩm quan trọng trong chương trình ôn thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ Văn. Ngòi bút của Quang Dũng đã dựng nên một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng chất sử thi hào hùng, bi tráng.Hãy cùng cô Minh Hương tìm hiểu chất sử thi trong bài thơ Tây Tiến nhé! Trước khi tìm hiểu chất sử thi trong bài thơ Tây Tiến, ta cùng nhau tìm hiểu thế nào là chất sử thi trong văn học. Chất sử thi trong văn học:Tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước.Nhân vật chính là những người đại diện cho phẩm chất và ý chí của dân tộc, gắn bó số phận cá nhân với số phận của đất nước, luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu.Giọng điệu sử thi là giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.Như vậy, chất sử thi trong thơ Quang Dũng:Hướng về đoàn binh Tây Tiến.Là những người lính trí thức, tiểu tư sản, đại diện cho anh bộ đội cụ Hồ.Thể thơ thất ngôn có sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng với giọng điệu thơ dứt khoát, mạnh mẽ, âm hưởng hào hùng để tô đậm hiện thực khốc liệt của chiến tranh và khẳng định sự bất tử của người lính cách mạng. Những từ khoá của bài thơ Tây Tiến cùng nhiều tác phẩm khác trong chương trình đều có trong cuốn sách Nghị luận văn học 12 theo các trích đoạn - Cuốn sách ôn thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn, các em có thể tham khảo thêm TẠI ĐÂY.
Ẩn dụ và hoán dụ là hai biện pháp tu từ khiến đa phần các bạn học sinh lo sợ và hoang mang bởi không biết cách phân biệt chúng ra sao. Đây là một đơn vị kiến thức quan trọng và thường xuyên xuất hiện trong phần Đọc hiểu của đề thi tốt nghiệp THPT hay bài phân tích tác phẩm. Nắm được nỗi lo này của học sinh, cô Minh Hương - giáo viên Ngữ Văn tại AT School sẽ giúp các em phân biệt hai biện pháp này chỉ với 3 bước đơn giản.BA BƯỚC PHÂN BIỆT ẨN DỤ VÀ HOÁN DỤ:Bước 1: Giải nghĩa từ chứa biện pháp.Bước 2: Khôi phục dưới dạng so sánh (Đặt từ "như" vào giữa A và B)Bước 3: Kết luận.Nếu so sánh được -> ẩn dụ (bởi ẩn dụ chính là so sánh rút gọn)Nếu không so sánh được -> hoán dụVí dụ:Câu thơ: "Chỉ cần trong xe có 1 trái tim"Bước 1: Giải nghĩa từ "trái tim" có nghĩa là "người lính"Bước 2: Khôi phục dưới dạng so sánh:"Trái tim" như "người lính"-> không so sánh đượcBước 3: Kết luận:Câu thơ sử dụng biện pháp hoán dụ.Các bạn ấn xem video TẠI ĐÂY.
Với mỗi bài nghị luận văn học hay nghị luận xã hội, việc sử dụng các nhận định để liên hệ mở rộng sẽ làm cho lập luận trở nên sắc bén hơn, câu văn có giá trị hơn, từ đó khiến cho bài văn của em có chiều sâu. Sau đây là một số câu nhận định đắt giá các em có thể thêm vào bài làm của mình: “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp)“Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sêđrin, Nga)“Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)“Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn học)“Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)“Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỷ này sang thế kỉ khác.” (M. Go-rơ-ki)“Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.” (Albert Schweitzer)“Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)“Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.” (Nguyên Hồng)“Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ”. (Hans Sachs)“Thời gian hủy hoại các lâu đài, nhưng lại làm giàu những vẫn thơ”. (Jorge Luis Borges)“Thơ chỉ bật ra trong tim ta khi cuộc sống đã tràn đầy”. (Tố Hữu)“Đừng dùng điện thoại. Người ta hiếm khi sẵn sàng trả lời nó. Hãy dùng thi ca”. (Jack Kerouac).“Thi ca là những hình vẽ vĩnh cửu trong trái tim của tất cả mọi người”. (Lawrence Ferlinghetti)“Trong lòng có điều gì, tất hình thành ở lời, cho nên thơ nói chí vậy”. (Phan Phu Tiên)“Thơ không thể làm không vì mục đích gì cả. Thử xem những bài thơ hay của người xưa, có bài thơ nào mà không vì mục đích gì không?” (Tiết Tuyết)“Thơ của một người bình dị hay tân kỳ, nồng hậu hay đạm bạc, không phải là mỗi bài mỗi câu đều hạn chế trong một thể cách. Có thể nào chỉ lấy một cái lông mà định đoạt cả con báo ư?” (Ngô Lôi Phát)“Thi ca là khoảng cách ngắn nhất giữa hai con người. Thi ca là cái bóng được chiếu bởi những ngọn đèn đường của trí tưởng tượng”. (Lawrence Ferlinghetti)“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. (Voltaire)“Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình”. (Cac Mac)“Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật”. (Bêlinxki)“Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng liêng… Thơ ca chân chính phải là nguồn thức ăn tinh thần nuôi tâm hồn phát triển, nó không được là thứ thuốc phiện tinh thần êm ái, nhỏ nhen mà độc hại”. (Lí luận văn học)“Những câu thơ lấp lánh như những tấm huy chương”. (Pauxtopxki)“Giọng ca buồn là thích hợp nhất cho thơ”. (Etga Pô)“Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ đến kinh thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. Nó đã ra đời giữa những vui buồn của loài người và nó sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế”. (Hoài Thanh)“Thơ chính là tâm hồn”. (M. Gorki)“Nhà thơ như con ong biến trăm hoa thành mật ngọt / Một mật ngọt thành đời vạn chuyến ong bay”. (Chế Lan Viên)“Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh. Để đạt được một lúc ba điều ấy đối với các thi sĩ vẫn còn là điều bí mật”. (Trần Đăng Khoa)“Bài thơ hay là bài thơ đọc lên không còn thấy câu thơ mà chỉ còn thấy tình người và tôi muốn thơ phải thật là gan ruột của mình”. (Tố Hữu)“Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người”. (Chu Văn Sơn)“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có”. (Tô Hoài)“Hội họa phải đạt được sự thấu hiểu qua tự thân nó, không cần tới giải thích, và thi ca cũng vậy. Nếu một bài thơ hay một bức họa cần phải được giải thích thì đó là thất bại trong giao tiếp”. (Lawrence Ferlinghetti)“Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ”. (Raxun Gamzatop)“Thơ là cái nhụy của cuộc sống, nên nhà thơ phải đi hút cho được cái nhụy ấy và phấn đấu làm sao cho cuộc đời của mình cũng có nhụy”. (Phạm Văn Đồng)“Hình thức cũng là vũ khí. Sắc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí”. (Chế Lan Viên)“Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay giọt nước mắt đắng cay”. (Raxun Gamzatốp)“Trí tuệ không liên quan gì mấy đến thi ca. Thi ca bắt nguồn từ điều gì đó sâu hơn; vượt qua trí tuệ. Nó thậm chí không thể gắn cho sự thông thái. Nó là chính nó; nó có bản tính của riêng mình. Không thể định nghĩa”. (Jorge Luis Borges)“Thơ là hành vi của con người. Người cao thì thơ cũng cao. Người tục thì thơ cũng tục. Một chữ cũng không thể che giấu. Thấy thơ như thấy người.” (Từ Tăng)“Làm thơ cũng như dùng binh, cẩn thận với địch thì thắng. Mệnh đề tuy dễ, không thể sơ suất hạ bút. Không đem hết công phu làm sao đến được chỗ hồn nhiên biến hóa”. (Tạ Trăn)“Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức giác quan về vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc”. (Hegel).“Sáng tác thơ là một việc do cá nhân thi sĩ làm, một thứ sản xuất đặc biệt và cá thể. Anh phải đi sâu vào tâm hồn cá biệt của anh để nói cái to tát của xã hội, cái tốt đẹp của chế độ, để tránh cái khô khan, nhạt nhẽo, anh phải có cá tính, anh phải trau dồi cái độc đáo mà công chúng rất đòi hỏi. Nhưng đồng thời anh phải đấu tranh để cái việc sự sáng tạo ấy không trở thành anh hùng chủ nghĩa”. (Xuân Diệu).“Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong”. (R.Tagore)“Người xưa trong ý có giấu những điều không thể nói ra, mới mượn vần thơ để truyền đi những điều mình muốn nói. Nếu trong lòng không cảm xúc mà chỉ vẽ vời lòe loẹt thì làm sao mà có thể có những vần thơ tuyệt diệu”. (Thẩm Đức Tiềm)“Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời, thơ còn là thơ nữa”. (Xuân Diệu)“Thơ chỉ bật ra trong tim khi cuộc sống đã thật tràn đầy”. (Tố Hữu)“Thơ là âm nhạc của tâm hồn, nhất là những tâm hồn cao cả, đa cảm”. (Voltaire)“Thơ ca là tri thức đầu tiên và cuối cùng – nó bất diệt như trái tim con người”. (William Wordsworth)“Nhà thơ, ngay cả các nhà thơ vĩ đại nhất cũng phải đồng thời là những nhà tư tưởng”. (Bêlinxki)“Cái cảm hoá được lòng người chẳng gì trọng yếu bằng tình cảm, chẳng gì đi trước được ngôn ngữ, chẳng gì gần gũi bằng âm thanh, chẳng gì sâu sắc bằng ý nghĩa. Với thơ, gốc là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả là ý nghĩa”. (Bạch Cư Dị)“Hãy xúc động hồn thơ cho ngọn bút có thần.”(Ngô Thì Nhậm)“Thơ ca đồng thời song hành với con người chức năng thức tỉnh lương tri đang ngủ.” (Eptusenko)“Câu thơ hay là câu thơ có khả năng đánh thức bao ấn tượng vốn ngủ quên trong kí ức của con người.” (Chu Văn Sơn)“Thơ là thư kí chân thành của trái tim.” (Duy bra lay)“Thơ là bà chúa của nghệ thuật.” (Xuân Diệu)“Trong tâm hồn của con người đều có cái van mà chỉ có thơ ca mới mở được.” (Nhêcơraxop)“Thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì để ngắm.” (Leonardo Da Vinci)“Làm thơ là cân một phần nghìn milligram quặng chữ.” (Maiacopxki)“Thơ là rượu của thế gian.” (Huy Trực)“Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhất của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có.” (Tô Hoài)“Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)Nguồn: tổng hợp
Với mỗi bài nghị luận văn học hay nghị luận xã hội, việc sử dụng các nhận định để liên hệ mở rộng sẽ làm cho lập luận trở nên sắc bén hơn, câu văn có giá trị hơn, từ đó khiến cho bài văn của em có chiều sâu. Sau đây là một số câu nhận định đắt giá các em có thể thêm vào bài làm của mình:“Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)“Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)“Văn học là nhân học.” (M. Gorki)"Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp sống lầm than.” (Nam Cao)“Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” (L. Tôn-xtôi)“Trên đời có những thứ chỉ có thể giải quyết bằng thơ ca.” (Maiacopxki)“Nhà văn là người thư ký trung thành nhất của mọi thời đại.” (Balzac)“Mỗi tác phẩm đều có ít nhất nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)“Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (CharlesDuBos)“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.” (M. Go-rơ-ki)“Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pautopxki)“Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.” (Biêlinxki)“Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)“Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn…” (Theo dòng, Thạch Lam)“Một chữ tình để duy trì thế giới. Một chữ tài để tô điểm càn khôn.” (Trương Trào, Trung Quốc)“Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” (Nguyễn Văn Siêu)“Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Puskin)“Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sêđrin - Nga)“Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)“Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam Cao)“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.” (M. Go-rơ-ki)“Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.” (An-đéc-xen)“Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.” (M. Go-rơ-ki)“Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.” (Hoài Chân)“Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.” (Nguyễn Tuân)“Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp)“Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực.” (Lép-Tôn-xtôi)“Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả… nếu nó khôg là tiếng thét khổ đau hay là lời ca tụng hân hoan; nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.” (Biêlinxki)“Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời.” (Xtăngđan)“Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhật kí của Nguyễn Văn Thạc)“Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hêghen)“Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)“Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam)“Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)“Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.” (Nam Cao)“Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.” (Gớt)“Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.” (Nguyễn Đình Thi)“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” (Sách Văn học 12)“Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)“Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.” (Đặng Thai Mai)“Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly)“Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống.” (Nguyễn Minh Châu)“Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kỳ, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người.” (Maxim Malien)“Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.” (Biêlinxki)“Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.” (Nguyễn Tuân)“Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.” (L. Tôn-xtôi)“Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.” (M. Go-rơ-ki)“Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)“Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lý.” (M. Go-rơ-ki)“Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…” (Nguyễn Tuân)“Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.” (Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)“Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.” (Ivan Tuốc-ghê-nhép)“Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatốp)“Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)“Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam)“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.” (Phạm Văn Đồng)“Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Tơriole)“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh)“Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.” (Pau-tốp-xki)Nguồn: Tổng hợp
AT School sẽ chia sẻ đến các bạn một số công thức mẫu để viết được một đoạn mở bài hay và đầy đủ. Các công thức này chỉ nên áp dụng trong trường hợp vào phòng thi tâm lí hồi hộp, không nghĩ ra được mở bài.
Khác với các môn thuộc khối A đầy bài tập lắt léo và công thức phức tạp thì các môn khối C (Văn – Sử – Địa) lại nặng về lý thuyết. Vậy bạn có muốn biết bí kíp để ôn thi đại học khối C hiệu quả? Dưới đây là 7 bí kíp để ôn thi đại học khối C hiệu quả vượt qua kỳ thi dễ dàng:
Top những sai lầm cần tránh khi viết văn 1. Không đọc kĩ đề bàiKhi làm bài văn thì việc sai đề là “tối kỵ”, bởi lạc đề, sai đề sẽ khiến học sinh “phí” công viết bài bởi sẽ không có điểm cho bài viết. Tình trạng này thường diễn ra khi học sinh đọc qua đề, chưa có sự chuẩn bị kỹ càng đã viết bài ngay. Đặc biệt có một số học sinh, đã xác định được đề nhưng lại viết nhầm theo hướng khác.Để tránh gặp phải lỗi này, học sinh cần rèn luyện cho mình thói quen cẩn thận, chỉnh chu trong từng bài văn. Trước khi viết bài, các bạn nên dành thời gian khoảng 3 đến 5 phút để xác định đề bài, hướng viết và nội dung trọng tâm của đề bài để tránh sai lầm đáng tiếc. 2. Không lập dàn ýLập dàn ý giúp chúng ta xác định được trình tự, nội dung cần triển khai trong bài viết, để có cái nhìn tổng quát xem mình đã lập luận ổn chưa, cần bổ sung hay loại bỏ như thế nào. Nếu không lập dàn ý trước khi làm rất dễ bị lan man, đặc biệt là khi thi, lúc viết ra trên giấy thì không thể tùy tiện chắp nối, chỉnh sửa được. Lập dàn ý trong khi luyện viết cũng chuẩn bị cho chúng ta một khung sườn sẵn để khi vào phòng thi không bị bỡ ngỡ.Tuy nhiên, viết dàn ý không chỉ là việc xác định những nội dung cơ bản nhất của ba phần Mở - Thân - Kết mà còn phải nghĩ về các ví dụ minh họa, cách dẫn dắt vấn đề, thứ tự trình bày cụ thể để khi viết không bị gián đoạn. 3. Đọc văn tham khảo không đúng cáchLệ thuộc vào bài mẫu sẽ dần bào mòn khả năng suy nghĩ độc lập, nhất là lúc gặp phải một đề văn mới trong phòng thi. Khả năng sử dụng ngôn từ cũng theo đó mà kém dần, khiến chúng ta không thể tự triển khai bài văn một cách trơn tru. Lệ thuộc vào bài mẫu cũng làm giảm tư duy phản biện, đồng thời làm mất đi phần nào ý nghĩa của việc phân tích văn học nói riêng và thưởng thức, phê bình nghệ thuật nói chung.Tuy nhiên, đọc bài mẫu vẫn là một việc làm cần thiết. Không chỉ với việc học văn, mà kể cả với các môn khác, các lĩnh vực khác, nhiều khi tự bản thân triển khai thì sẽ không thể tự đánh giá mức độ đúng sai, phù hợp, nên việc xem, đọc những công trình mẫu mực, chất lượng sẽ giúp chúng ta học hỏi được nhiều điều, chẳng hạn như khi viết văn, chúng ta có thể học hỏi được cách dùng từ sắc sảo, chọn lọc, giàu sức gợi, viết câu mạch lạc, có tính liên kết.Như vậy, chúng ta vẫn cần đọc bài mẫu, nhưng quan trọng là đọc sao cho đúng cách. Trước hết, mỗi khi gặp một đề bài, hãy tự độc lập suy nghĩ xem chúng ta nên triển khai nó như thế nào, sau đó tự lập dàn ý chi tiết rồi mới tham khảo bài mẫu để bổ sung, chỉnh sửa những điểm còn thiếu sót. Đặc biệt cần chú ý tự luyện cách triển khai ý văn sao cho thích hợp nhất với nội dung mình cần viết, vì không phải đề bài nào cũng giống nhau hoàn toàn. 4. Không cố gắng viết một bài hoàn thiện ngay từ đầuTrong thời gian tìm hiểu xong một tác phẩm, nhiều bạn không lập danh sách các đề văn trọng tâm, đề văn mở rộng để làm ngay, mà chờ đến sát đợt thi mới vội vàng chuẩn bị. Như vậy vừa dễ khiến bài văn thiếu chỉn chu mà vừa không có nhiều thời gian ôn tập cho nhuần nhuyễn. Nhiều khi vì thế mà nhiều bạn chọn học tủ, học lệch, dẫn đến kết quả không tốt, mà ít đọng lại được kiến thức cho mình. Nếu được chuẩn bị trước, chúng ta sẽ có thời gian nhiều hơn để giọt giũa câu từ, chỉnh sửa, bổ sung lập luận sao cho bài văn đạt được chất lượng tốt nhất có thể, đồng thời nếu được thì hãy chuẩn bị thêm những đề mở rộng, những khía cạnh mới để vào phòng thi không bị bỡ ngỡ
Hình tượng người lính trong thơ ca kháng chiếnThơ ca viết về chiến tranh luôn dành một vị trí trang trọng để ngợi ca hình tượng người lính. Họ là những người xông pha nơi chiến trường ác liệt, đối mặt với kẻ thù nơi tuyến đầu để giành độc lập, tự do cho đất nước. Trong hoàn cảnh chiến đấu dưới làn mưa bom bão đạn của kẻ thù, không ít những người lính đã hy sinh anh dũng, nằm lại nơi chiến trường. Hình ảnh ấy đã tạc vào dáng hình đất nước và trở thành bức tượng đài bất hủ trong thơ ca kháng chiến.Viết về chiến tranh, nơi bom đạn ác liệt, các nhà thơ của văn học Việt Nam giai đoạn 1954-1975 và giai đoạn sau 1975 không hề né tránh những đau thương, mất mát và đặc biệt là sự hy sinh của những người lính. Mỗi một bài thơ, một trường ca như một thước phim gieo vào lòng người đọc hình tượng người anh hùng liệt sỹ, những người mang trong mình tình yêu quê hương, mang trong trái tim mình bầu nhiệt huyết sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc thân yêu.Hình ảnh người lính luôn là hình ảnh đẹp nhất của văn học Việt Nam. Viết về các anh là viết về những con người đã làm nên hình hài, dáng vóc thân thương của non sông gấm vóc Việt Nam. Huyền thoại về những người lính gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm của đất nước ta. Có lẽ, chưa một dân tộc nào trên thế giới lại phải gánh chịu những mất mát và khổ đau vì chiến tranh như dân tộc ta. Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã khiến cho những con người Việt Nam trở nên lớn lao và kì vĩ. Khắc tạc vào thơ ca Việt Nam những tượng đài bất hủ về người lính cũng chính là những nén hương tưởng nhớ thiêng liêng mà đời đời lớp sau vẫn tri ân từ trái tim mình. 1. Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo(Đồng chí - Chính Hữu) 2. Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,Quân xanh màu lá dữ oai hùm.Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.(Tây Tiến - Quang Dũng)3. Không có kính, rồi xe không có đèn,Không có mui xe, thùng xe có xước,Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:Chỉ cần trong xe có một trái tim.(Bài thơ về tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)4. Gan không núngChí không mònNhững đồng chí thân chôn làm giá súngĐầu bịt lỗ châu maiBăng mình qua núi thép gaiÀo ào vũ bãoNhững đồng chí chèn lưng cứu pháoNát thân nhắm mắt còn ôm(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu)5. Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đườngChỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.Tên Anh đã thành tên đất nướcÔi anh Giải phóng quân!Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn NhứtTổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân(Dáng đứng Việt Nam - Lê Anh Xuân)6. Những chiến sĩ đâm lê Núi ThànhMắt nhìn thù sao bay rực rỡRượt đuổi thù chân như chiến mãĐâm chết thù, sức núi dồn tay(Những dũng sỹ đâm lê Núi Thành - Phạm Hổ)7. Súng nổ rung trời giận dữNgười lên như nước vỡ bờNước Việt Nam từ máu lửaRũ bùn đứng dậy sáng loà.(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)8. Hoan hô anh giải phóng quânKính chào anh con người đẹp nhấtLịch sử hôn anh chàng trai chân đấtSống hiên ngang bất khuất ở trên đờiNhư Thạch Sanh của thế kỷ hai mươiMột dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc MỹKhông tự ngắm mình anh chẳng hay đâuHỡi chàng dũng sỹCả năm châu chân lý đang nhìn theo.(Bài ca xuân 68 – Tố Hữu)9. Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình(nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốccỏ sắc mà ấm quá phải không em?(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)10. Em tìm anh, không thể nào gặp đượcMáu anh bay lên trên những lá cờTóc anh xanh cây lá tự doMắt anh sáng bao mắt nhìn đắm đuối(Tình ca người lính - Nguyễn Trọng Tạo)
VẺ ĐẸP SÔNG HƯƠNG - TÀI HOA PHONG CÁCH KÍ HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG ĐỀ BÀI:Trong bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhiều lần ví von vẻ đẹp sông Hương:Lúc ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Di- gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.”Khi về ngoại vi thành phố Huế: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó.”Và khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Đối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống với con người ở đây; và để nhân cách hóa nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả…”(Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngữ văn 12, tập 1, NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr 198-201)Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương trong những lần miêu tả trên, từ đó làm nổi bật nét tài hoa trong phong cách kí Hoàng Phủ Ngọc Tường. BÀI LÀM:“Chúng ta, những nhà văn, chúng ta bòn đãi chúng trong hàng chục năm, hàng triệu những hạt cát đó, lặng lẽ thu góp lại cho mình, biến chúng thành một hợp kim và rồi từ hợp kim đó ta đánh “bông hồng vàng” của ta-truyện, tiểu thuyết hay là thơ… Nhưng cũng giống như bông hồng vàng của người thợ hót rác già kia làm ra là để cho Xuyzan được hạnh phúc, sáng tác của chúng ta là để cho cái đẹp của trái đất…”. Bởi lẽ đó, văn học nghệ thuật ra đời mang theo sứ mệnh lưu giữ những nét đẹp của non nước, của con người, của vũ trụ mênh mông. Nét đẹp ấy mãi mãi xanh tươi với đời theo dòng chảy của thời gian để rồi qua từng thế hệ, nó vẫn đọng lại và vấn vương nơi thẳm sâu nhất của mỗi độc giả. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là “bông hồng vàng” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dày công khắc họa vẻ đẹp thân thương thuộc về xứ Huế mộng mơ. Đến với bài kí, ta thấy được nét tài hoa trong phong cách kí của Hoàng Phủ khi đằm mình trong điệu hồn sông Hương khi ở thượng nguồn: “Giữa lòng Trường Sơn… trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, khi về ngoại vi thành phố: “Phải nhiều thế kỉ qua đi… như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới gặp thành phố tương lai của nó” đến khi tạm biệt kinh thành Huế: sông Hương “như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói… để nói một lời thề trước khi về biển cả…”Nhắc đến Hoàng Phủ Ngọc Tường, ta sẽ nhớ ngay đến nhà văn của thiên nhiên, con người trên mọi nẻo đường của dải đất hình chữ S, nhưng có lẽ đặc biệt nhất vẫn là những trang văn viết về Huế mộng Huế mơ. Sở trường của Hoàng Phủ là thể loại tùy bút và bút kí. Mỗi sáng tác của ông đều là một sự sáng tạo, mang đậm một dấu triện riêng độc đáo, đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và cảm xúc cùng lối viết văn tư duy đa chiều, vốn hiểu biết sâu rộng được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực của đời sống. Tô Hoài từng nói: “Nếu có thể so sánh, thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến từng ngõ ngách những sự tích xưa sau của Sài Gòn - Bến Nghé. Tôi thì nhớ được ít nhiều tên làng vùng Hà Nội. Hoàng Phủ Ngọc Tường thì trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước xứ Huế”. Tất cả vẻ đẹp của thành phố Huế được nhà văn gói gọn trong tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”.“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được nhà văn chấp bút tại Huế năm 1981 với niềm ấp ủ và tâm huyết mãnh liệt. Bằng một phong cách riêng vừa giàu trí tuệ lại giàu chất thơ cùng sự am hiểu sâu rộng kiến thức về địa lý, lịch sử, văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dệt nên một bài kí đầy màu sắc sông nước với âm hưởng riêng vốn có của Huế, đặc tả hình ảnh thiên nhiên và thủy trình độc đáo của nó, mang trong mình dòng chảy lịch sử chứa đựng biết bao nét cổ kính nơi đây. Và có lẽ không lạ gì khi sông Hương trở thành: “một lời hứa mà chừng nào chưa thực hiện được thì lòng vẫn băn khoăn, day dứt khôn nguôi”.Nói tới sông Hương của xứ Huế, người ta nghĩ ngay đến sự phẳng lặng, êm đềm nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường với mong muốn khám phá đã không ngừng lại để nhìn ngắm “khuôn mặt kinh thành” của sông Hương mà ngược dòng thời gian khám phá vẻ đẹp đầy bí ẩn và sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong “phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông”. Bằng những nét vẽ chân thực và một trái tim đa cảm, nhà văn đã dẫn dắt người đọc ngược xuôi qua từng chặng thủy trình của Hương giang từ “thượng nguồn” cho đến khi trở lại “ngoại vi thành phố Huế”. Ngay từ câu văn mở đầu, Hoàng Phủ đã tạo ra một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ vào tâm trí của người đọc về dòng Hương giang: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước thì sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Con sông vì thế mà mang trong mình những vẻ đẹp khác lạ, nó đã trở thành một tặng phẩm đầy giá trị mà tạo hóa đã hun đúc và ban cho thành phố Huế. Dòng sông ấy có lẽ sinh ra chỉ để dành riêng cho Huế và trở thành biểu tượng của thiên nhiên xứ Huế, cùng với vẻ “nghiêng nghiêng, trăng trắng hình vành lược” của cầu Tràng Tiền. Tất cả đã khiến mỗi du khách qua đây đều phải nhắm mắt trong yên tĩnh mà thưởng thức điệu trữ tình của dòng nước êm trôi lững lờ mang tên Hương giang.Hương giang chính là linh hồn của Huế. Nếu không tìm hiểu kĩ về cội nguồn của sông Hương thì có lẽ ít ai biết rằng rừng già Trường Sơn chính là nơi khởi nguồn của Hương giang, chính rừng già đã khai sinh ra nó để nó bắt đầu một sự sống, một đời người. Nhà văn quan sát dòng chảy của Hương giang với điểm nhìn khởi đầu từ thượng nguồn giữa lòng Trường Sơn và nhận ra rằng sông Hương như “một bản trường ca của rừng già” mãnh liệt và dữ dội. Bên cạnh vẻ đẹp mạnh mẽ và phóng khoáng, sông Hương còn mang trong mình một vẻ đẹp dịu dàng và nữ tính. Nếu Nguyễn Tuân thấy sông Đà ngoằn ngoèo như một sợi dây thừng dài, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc thì trong ánh nhìn của Hoàng Phủ, Hương giang là “những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, thật thi vị và thơ mộng làm sao!Bản trường ca của rừng già quả thực mãnh liệt và giàu sức sống đến nỗi nhà viết kí đã khai phóng trí tưởng tượng của mình, nhân cách hóa Hương giang như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại. Đó là những cô gái Bô-hê-miêng sống trên thảo nguyên xanh, trên những cánh đồng bạt ngàn cỏ. Vẻ đẹp độc đáo ấy được là phá vỡ mọi khuôn thước, mọi giới hạn. Sự phá cách đã đem tới cho Hương giang một nét đẹp riêng biệt. Bằng cách ví von đầy thú vị, Hoàng Phủ gợi ta liên tưởng tới hình ảnh con sông Hương ở đoạn thượng nguồn với phần đời vô cùng mạnh mẽ và quyết liệt. Dòng chảy cuộn xoáy và dâng trào, đã sống hết mình cho tuổi thanh xuân tự do và phóng khoáng của mình. Nửa đời này cô gái Hương giang đã sống bằng bằng đam mê của tuổi trẻ, bằng tất cả bản lĩnh và gan dạ.Giữa lòng dãy Trường Sơn xa xôi, sông Hương sống cuộc đời của một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, thế nhưng khi ra khỏi rừng già, Hương giang nhanh chóng biến mình sang một dáng vẻ khác, trong một nét tính cách khác. Nó chế ngự bản năng và sức mạnh hoang sơ ban đầu, ném chiếc chìa khóa bí mật vào chân núi Kim Phụng, giấu đi nửa phần đời bí ẩn trước đó. Dù cuộc hành trình trở về với “người tình” mong đợi của nó có gian truân, vất vả đến đâu, Hương giang vẫn khiêm tốn, “đóng kín” tất cả những gì nó đã trải qua. Hành trình lột xác của dòng sông Hương là cả một sự hi sinh lớn lao. Ai bảo rằng khi từ bỏ lối sống vốn là đam mê của mình, con sông Hương không quặn mình đau đớn? Thế nhưng, gạt bỏ tất cả sở thích, bản chất của mình, dòng sông đã biến hóa trở thành một nàng Hương giang đúng điệu mộng mơ, đa tình, đa sắc của Huế. Trở về với đồng bằng, sông Hương lột xác với: “Một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Nó đã thể hiện thiên chức cao cả và thiêng liêng của một dòng sông vốn có và nên làm: bồi đắp phù sa màu mỡ cho đồng bằng châu thổ miền Trung, đồng thời chính dòng chảy ấy đã gây dựng nên không gian văn hóa trong tinh hoa xứ Huế, gìn giữ nền văn hóa cổ xưa. Sông Hương mang trong mình một sứ mệnh to lớn với vùng đất cố đô, thế nhưng “dòng sông hình như không muốn bộc lộ” mà chọn cho mình một dòng chảy lặng lẽ, trầm ngâm cùng bước đi của thời gian, ngắm nhìn những thành tựu mà nó đã mất nửa đời người để vun đắp và cống hiến. Như vậy, bằng những hình ảnh liên tưởng phong phú cùng với cảm xúc dâng trào của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trân trọng gọi Hương giang là “người mẹ phù sa”. Cách nói ấy đã thể hiện được phần nào sự tin yêu, cùng niềm tự hào và biết ơn đối với con sông quê hương. Phải chăng Hoàng Phủ đã dùng trái tim để hiểu thấu đáo vẻ đẹp mà ít ai cảm hết được của Hương giang nơi rừng già? Vậy là, có một dòng sông nơi bên kia cửa rừng, và một dòng sông của kinh thành cổ xưa, từ phóng khoáng, cởi mở nay kín đáo, sâu sắc và giàu tâm trạng biết bao.Men theo dòng chảy lững lờ của Hương giang, về đến ngoại vi thành phố, Hương giang nhanh chóng bỏ lại những nét dữ dội, hoang sơ của rừng già, khoác chiếc áo thật thơ và e ấp: “Một người con gái đẹp nằm mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Hoàng Phủ đã vô cùng tinh tế khi sử dụng phép nhân hóa, liên tưởng so sánh độc đáo, sông Hương trở thành người con gái đẹp bừng tỉnh sau giấc ngủ ngàn năm, trong nó tất thảy chứa đựng một tâm hồn, một sắc điệu riêng đặc biệt và sâu sắc. Những bông hoa dại như những điểm nhấn thanh khiết, nhẹ nhàng, tô điểm cho dòng sông một vóc dáng mới, một sức sống mới tràn đầy khao khát khác hẳn với sự rạo rực, bùng cháy của dải hoa đỗ quyên rừng nơi thượng nguồn. Để khắc họa cái duyên thầm, tình tứ, Hoàng Phủ Ngọc Tường ví nàng Hương giang như một người con gái nhẹ nhàng, uốn mình đầy nữ tính trên con đường đi tìm tình yêu đích thực. Và có lẽ Huế chính là người tình đầy mong đợi của nàng. Thay vì “cuồn cuộn”, “mãnh liệt” nơi thượng nguồn hoang vu thì Hương giang lại trở nên e ấp, dịu dàng, quyến rũ với những “đường cong uốn lượn thật mềm mại”. Với lối liên tưởng hết sức tinh tế ấy, ta cảm tưởng đứng trước mắt ta là cô gái Hương giang đang độ đương xuân với thân hình mĩ miều, đang cố gắng thay đổi diện mạo “chuyển dòng một cách liên tục” để đi tìm thành phố tương lai trong mộng tưởng của mình.“Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình”. Nếu trong tùy bút “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân đặc tả con sông Đà hung bạo, thế nhưng vào một khoảnh khắc nào đó, nó trở nên dịu dàng, đằm thắm như một cố nhân đối với người đi rừng, thì đến với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, Hoàng Phủ đã vẽ nên một Hương giang dù vẫn mang nét hoang dại “đi trong dư vang của Trường Sơn”, nhưng vẫn hiện lên như một người con gái yêu kiều với trái tim nồng nàn, mãnh liệt trao cho “chàng trai” xứ Huế. “Nhân sinh là thế, gặp gỡ rồi biệt ly”, cuộc hội ngộ nào rồi cũng sẽ đến lúc phải nói lời tạm biệt. Dòng Hương giang cũng vậy, khi phải rời xa Huế chếch về hướng chính Bắc, Hương giang “ôm lấy đảo Cồn Hến” rồi cứ thế mà đi trong sự bịn rịn, quyến luyến đầy nuối tiếc. Nó ra đi giữa một cảnh sắc mơ màng, trong sự bao quanh sắc xanh của tre trúc hòa lẫn cùng những sắc khói mong mảnh nơi đảo Cồn Hến khiến Huế hiện lên như một bức tranh thủy mặc mang những sợi tơ vương buồn bã của buổi chia xa. Qua những nét bút của người nghệ sĩ đầy tài hoa, cùng biện pháp nhân hóa nội tâm, hình ảnh con sông Hương hiện lên không còn là một sự vật vô tri vô giác, mà hình dáng và tâm hồn của nó như thể một con người, biết quay đầu trở về nơi yêu thương, biết bộc lộ cảm xúc trước sự xa cách. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặc biệt gọi đó là “nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” khi sông Hương bỗng đổi dòng “gặp thành phố ở góc thị trấn Bao Vinh xưa” để nói lời chào tạm biệt Huế lần cuối cùng. Huế và Hương giang tưởng chừng như một đôi tình nhân đầy quyến luyến không thể tách rời. Hiểu được tâm tình ấy, liệu tình yêu có đủ dũng cảm để chia ly? Nhà văn họ Hoàng đã thổi hồn vào cho dòng sông để rồi ví sự dùng dằng của Hương giang như cuộc gặp gỡ của Thúy Kiều và Kim Trọng trong đêm: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”, để nói lời thề non hẹn ước: “Sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề nguyền trước khi về biển cả”, lời thề của nó cũng là tình cảm của người dân Châu Hóa một lòng chung tình với thành phố Huế. Phải nói rằng, từ thượng nguồn cho đến cuộc chia này, sông Hương đã đi với Huế cả một mối tình đầy trọn vẹn, một mối tình có đầu có cuối, có thủy có chung, một mối tình ngổn ngang biết bao tâm trạng và dòng xúc cảm khác biệt để cho độc giả thấy rằng: sông Hương gắn chặt với linh hồn của cố đô xưa, chẳng bao giờ có thể tìm được dòng sông thứ hai nào có thể mang cho Huế sự đồng điệu và trầm ngâm đến vậy. Tất cả chỉ có thể là Hương giang của Huế, và Huế của Hương giang mà thôi!Những phát hiện thú vị đậm màu sắc văn chương của tác giả về dòng sông khiến Hương giang vốn đã đẹp ngỡ ngàng, nay dưới con mắt đầy nghệ thuật của Hoàng Phủ lại càng duyên dáng và giàu cảm xúc. Cách liên tưởng của tác giả đã khiến ta cảm nhận vẻ đẹp của con sông Hương từ hình dáng bên ngoài cho đến vẻ đẹp tâm hồn sâu thẳm bên trong. Nó đã thể hiện tình yêu say đắm, nồng nàn và sâu sắc với Huế mộng Huế mơ. Quả thực bằng những con chữ có hồn, cùng bầu cảm xúc mãnh liệt và đa cảm kết hợp các phép tu từ so sánh, nhân hóa, Hoàng Phủ đã làm nổi bật vẻ đẹp “thẳm sâu” trong tâm hồn Hương giang, từ đó tô điểm thêm cho con người xứ Huế. “Người phu chữ” cùng “cái tôi” của mình thăng hoa trên mảnh đất màu mỡ của hiện thực cuộc sống, “gạn đục khơi trong”, “đãi cát tìm vàng” những vẻ đẹp diệu kỳ mà thiên nhiên, tạo hóa ban tặng cho nhân loại.“Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật”. Và đó cũng là cách mà Hoàng Phủ làm nên kiệt tác văn chương thấm đượm chất trữ tình “Ai đã đặt tên cho dòng sông? Qua bài bút kí đậm chất thơ ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định được cái bản ngã riêng trong phong cách sáng tạo của mình, đặc biệt là trong thể loại kí. Vốn được sinh ra và lớn lên tại miền đất cố đô Huế, hơn ai hết, nhà văn là người rất am hiểu về lịch sử, thiên nhiên và con người nơi đây. Bởi vậy, từng thước văn trên mỗi áng văn đều là những chắt lọc tinh túy và đẹp đẽ về vùng đất Huế ruột thịt với những giá trị thẩm mỹ đặc biệt khiến Hoàng Cát cũng phải khẳng định rằng: “Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn hiện lên là một nhà văn hóa hành văn vô cùng độc đáo, một cuốn từ điển sống về Huế”. Bên cạnh đó, vốn kiến thức uyên bác và tài hoa trên nhiều lĩnh vực còn được ông tích lũy qua nhiều chuyến đi điền dã đến mọi miền của Tổ quốc để tìm hiểu, khám phá sự việc ở chiều sau của nó. Không chỉ vậy, với hình tượng nhân vật “tôi” hết sức hấp dẫn, khác hẳn với cái tôi trong truyện ngắn hay thơ trữ tình, một cái “tôi” trực tiếp, truyền tải đến người đọc những giá trị chân thực sau mỗi nét chữ, câu văn. Những ánh lửa bập bùng nở ra qua từng vẻ đẹp của Hương giang giúp từng con chữ như được nhảy múa, sáng rực trong bức kí họa, để rồi khi đủ hơi “ấm”, người ta vẫn sẽ mãi nhớ đến Hoàng Phủ Ngọc Tường với dòng Hương giang đầy kì lạ và đắm say. Và cũng chính nhờ vốn hiểu biết phong phú, cùng những kiến thức liên ngành đã giúp nhà văn khám phá vẻ đẹp đa dạng của con sông Hương trên nhiều phương diện, đặt sông Hương vào giữa sự hòa quyện chất trí tuệ và chất thơ để tạo nên một dòng sông nghệ thuật quyến rũ như biết đi, biết tạo hình trên mỗi trang văn. Đồng thời kết hợp với lối văn hướng nội, thể hiện ở những sự kiện vang bóng trong tâm hồn, cùng hành trình đi sâu tìm kiếm vẻ đẹp văn hóa một thời đã làm nên nét rất riêng cho thể kí của Hoàng Phủ. Đồng thời qua bàn tay nhào nặn, một thứ ngôn ngữ rất đẹp, tinh tế và lịch lãm đã ra đời cùng những ví von so sánh đậm thơ đắm nhạc. Cuối cùng chính tình yêu thiên nhiên, quê hương sâu đậm, nồng thắm và ánh nhìn lãng mạn đã nâng đỡ bước chân ông trên mọi lời văn, trang sách: “Là thi sĩ của thiên nhiên, Hoàng Phủ Ngọc Tường nhạy cảm với cỏ dại, cỏ gai, ngàn thông, chim sẻ… Là thi sĩ của thiên nhiên, những trang ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thẳm, ẩn chìm những vết trầm tích văn hoá từ thiên nhiên” . Thứ tình cảm, cảm xúc chân thành ấy đã trở thành điều kiện tiên quyết cho những sáng tác của Hoàng Phủ, bởi rằng tình yêu tha thiết, gắn bó ấy đã chiếm trọn tâm hồn ông. Nếu ví sông Hương là người tình mong đợi của xứ Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là người tình mong đợi của sông Hương dưới cái nhìn mê đắm và tài hoa. Cứ thế Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp thêm cho kí Việt một tiếng nói rất riêng của một nhà văn rất Huế.Nguyễn Tuân khẳng định: “Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”. Giờ đây những “ánh lửa” ấy đã được đón nhận và sưởi ấm bằng cách lan tỏa những con chữ trên trang văn, để chúng len lỏi vào từng tế bào của người đọc một niềm yêu thương tha thiết mãnh liệt với cố đô Huế và dòng Hương giang. Tuy chỉ qua một đoạn kí ngắn gọn về dòng sông, nhưng cũng đủ để ta thêm yêu cảnh sắc trên dải đất Việt Nam và trân trọng tài năng, sự hun đúc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phác họa nên một bức tranh hoàn chỉnh và đa chiều về sông Hương. Qua hình ảnh con sông mang nét đẹp hoa lệ ấy, nhà văn cũng muốn nhắn nhủ tới những thế hệ đi sau phải luôn trân trọng những giá trị thiên nhiên ban tặng, hãy trở thành người bạn tâm giao để bảo vệ vẻ đẹp ấy mãi mãi trường tồn với thời gian, đừng để lớp bụi thời gian phủ đầy lên những vẻ đẹp đó, để rồi sau này không thể nào xóa bỏ được lớp bọc ấy mà sống trong hối tiếc!Từng lời chữ, câu văn dường như đã đến lúc phải kết thúc thật rồi. Ấy vậy mà, trong sâu thẳm trái tim của người viết vẫn không thể nào quên được bóng hình của dòng Hương giang nơi thượng nguồn, khi về ngoại vi thành phố và khi tạm biệt kinh thành Huế. Có lẽ sức đọng của nó quá lớn, quá da diết để có thể quên ngay được một dáng hình “chuyển dòng một cách liên tục”. Sông Hương đã trở thành gương mặt kinh thành của Huế, là linh hồn, là cuộc sống bao đời nay của người dân xứ Huế, sông Hương chính là Huế. Cảm ơn tạo hóa, cảm ơn ông Trời đã tạo nên mối lương duyên kì diệu cho Huế, cho sông Hương; và Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là người mai mối tốt đẹp nhất cho mối duyên cơ này:“Con sông dùng dằng con sông không chảySông chảy vào lòng Huế nên rất sâu”.
Một cuộc đấu giá hạnh phúc (Đọc truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân – Nguyễn Tấn Ái) Kim Lân (1920 – 2007) nổi tiếng là cây bút có biệt tài về truyện ngắn, tiêu biểu cho sáng tác của ông là hai truyện ngắn nổi tiếng Làng và Vợ nhặt. Bút mực khen văn tài của Kim Lân trong hai truyện ngắn này có lẽ đã dày hơn một nghìn lần độ dày của chính tác phẩm: tạo tình huống, xử lí nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện… Tôi đồng tình với nhà giáo Đỗ Kim Hồi trong lời phát biểu: Xét về văn chương thì cái Vợ nhặt có phần hơn cả cái Làng. Trong các nhân vật văn học, không kể các loại nhân vật minh họa, chỉ nói đến các nhân vật văn chương thực sự vào loại hiếm như Huấn Cao (Nguyễn Tuân), Chí Phèo, Cu Lộ, Lão Hạc (Nam Cao), Mị (Tô Hoài)… thì tôi xếp anh cu Tràng của Vợ nhặt vào loại nhân vật ưu tiên mỗi khi đọc lại. Cái lạ, cái hấp dẫn nhất của nhân vật với tôi là ở chỗ nhà văn đã đặt vào nhân vật có phần khù khờ ấy một khát vọng hạnh phúc đến đáng kính, và đã giải quyết thật thuyết phục. Mỗi lần đọc lại truyện “Vợ nhặt”, tôi bao giờ cũng lật ngay cái trang nói chuyện Tràng nhặt được vợ trên chợ tỉnh, và dù lần thứ mấy mươi vẫn nguyên xi cái thú vị ban đầu ngộ ngộ: anh cu Tràng đang làm một cuộc đấu giá vô tiền khoáng hậu – Một cuộc đấu giá hạnh phúc. Khởi từ một cuộc chơi, một lời nói chơi: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò / Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, rồi cái cuộc chơi ấy cứ phăm phăm ráo riết thành cuộc thật tự lúc nào mà chính Tràng cũng không kịp nhận ra. Thử rà xét lại các đương sự xem thái độ của người trong cuộc thế nào? Người đàn bà là sản phẩm của mùa đói, thôi thì đủ cái lệch vẹo: nghe ăn thì “lon ton”; mất ăn thì “cong cớn”, “sưng sỉa”; thấy ăn thì “mắt sáng lên”; được ăn thì “sà xuống”; khi ăn thì “cắm đầu”;… Và khi thị “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc” thì tôi nghĩ cái dạ dày của thị đã tiêu hóa nốt chút lòng tự trọng cuối cùng mà người ta vốn quen dành cho những người đàn bà! Ấy đó là chân dung người đàn bà, phải có cái chân dung ấy thì mới hiểu hết bí mật trong thế giới khát vọng của Tràng. Tràng đã bỏ ra những gì để có được người đàn bà ấy? Thử làm một phép thống kê: bốn bát bánh đúc, một cái thúng con, vài thứ lặt vặt, lại còn rình rang đi chợ tỉnh và kết cuộc là vào hàng cơm “đánh một bữa thật no nê”, lại vì thị mà liều lĩnh mua thêm hai hào dầu giữa mùa đói. Mọi con số thống kê đều trở nên mù điếc nếu không đặt vào thời giá. Ở cái thời mà chị Dậu vét cả chó, cả con cũng chỉ được định giá có hai đồng mốt, và ba đồng là mua đứt cả một đời người con trai lão Hạc. Lại nữa, Tràng đã chi tiêu hào phóng trong cái khung cảnh “người chết đói như ngả rạ”, còn người sống thì “đi lại dật dờ xanh xám như những bóng ma”. Và cái âm thanh của tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết”, mùi vị khét lẹt của đống rấm, màu xám xịt của bầu không khí còn in hằn trên gương mặt của bà cụ Tứ đã trở thành bảng tổng phổ của mùa đói. Cái chân giá ấy đã nói ít nhiều về cái giá mà Tràng đã bỏ ra. Song vẫn chưa sáng nghĩa mấy nếu ta chưa tính đến gia sản của Tràng. Mà Tràng thì có gì ? Một chiếc áo nâu tàng, cành dong dấp cổng, căn nhà rúm ró xiêu vẹo, và cố kê khai nữa thì có thể kể thêm một đống rác “nằm tung banhd ngay lối đi”, một cái ang chứa nước, một đống quần áo vắt “khăm mươi niên” từ năm này qua năm khác. Ngay cả bữa ăn đãi nàng dâu mới mà bà cụ Tứ đã cố mĩ từ hóa nó lên thành “chè khoán” cũng chỉ là nồi cháo cám đắng chát, nghẹn bứ trong cổ họng. Có thể nói Tràng đã bị “âm chi” trong vụ mặc cả nổi tiếng này! Tràng đã ngã một cái giá quá đắt so với cái giá vốn có ở thị, đến độ người đàn bà cong cớn ấy đã phải có lúc cau mặt: “Hoang nó vừa thôi chứ!”. Mà chưa thấm thía gì so với thái độ của Tràng. Nào có ai ra giá mà Tràng ngã giá. Tưởng tượng tôi cứ thấy cái cảnh đấu giá lạ lẫm, ở đó chỉ có Tràng mặc cả với mình. Anh liên tục ra giá, rồi phá giá, rồi nâng giá: ăn giầu không ăn thì cho ăn bánh đúc, ăn no rồi sắm sửa, sắm sửa rồi ăn sang, ăn sang rồi lại lo mua dầu thắp sáng. Lại mời chào đon đả. Đã thế, anh chàng lại ra cái dáng đắc ý của một đứa trẻ được cuộc, lại được cuộc rất nhàn nhã (“tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, thế mà thành vợ chồng”). Trên đường đưa thị về nhà, mặt anh chàng cứ phởn phơ tợn. Mỗi lần nghĩ về anh cu Tràng, trong trí tôi lại cứ hiện lên bóng dáng anh nông dân nào đó trong một bài ca dao, mà hắn cũng bà con họ hàng thân thuộc với Tràng, nghĩa là cũng “rớt mồng tơi”, nhưng cũng lại có cái ao ước rất sang:“Giá mà anh lấy được nàngĐể anh mua gạch bát tràng về xâyXây dọc rồi lại xây ngangXây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân”Rõ là sang trọng nhé! “Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng” mà. Người nông dân ấy trong tình yêu đã dám mơ một giấc mơ sang trọng, đã dám yêu trong tư cách của một bậc đế vương, bởi đã tòa ngang dãy dọc lại còn có nguyên cả một chiếc hồ chỉ để… “cho nàng rửa chân”. Dương Quý Phi bên Tàu cũng chỉ sang trọng đến thế mà thôi. Và nhân vật Tràng của Kim Lân cũng ứng xử với tình yêu một cách thật là sang trọng. Ra là trong thế giới tâm hồn bí mật của con người vừa nghèo vừa xấu lại hơi lẩn thẩn ấy luôn ngầm giấu một khát khao hạnh phúc mãnh liệt, nên khi có cơ hội thì chàng quyết đuổi bắt cho kì được, dù phải trả bất cứ giá nào! Đọc Vợ nhặt, ta thấy ở Kim Lân một tấm lòng thật đôn hậu. Ông trân trọng phẩm giá con người, nhất là những người nông dân cùng khốn. Chính vì vậy mà trong Tràng là bao nhiêu vẻ đẹp: yêu thương, san sẻ, hiếu thảo, có trách nhiệm với vợ con… Song nếu chỉ có ngần ấy thôi thì tôi e rằng gương mặt nhân vật sẽ nhạt đi biết bao nhiêu so với hàng loạt các nhân vật cùng phẩm chất. Cái làm nên nét đặc biệt ở Tràng chính là một khát vọng hạnh phúc đến đáng kính. Và làm nên cái duyên văn ở Kim Lân trong xử lí nhân vật là đã tìm ra một tình huống độc đáo: Một cuộc đấu giá hạnh phúc, từ đó mà mở ra kho tàng khát vọng giấu kín ở những con người ngỡ không chân giá. Đó là cái tài, cũng là cái tình của Kim Lân.