Ngữ văn

Sông Hương mang một vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình

Bàn về hình tượng sông Hương trong bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường có ý kiến cho rằng “sông Hương mang một vẻ đẹp đầy nữ tính và rất mực đa tình”. Hãy bình luận ý kiến trên qua việc phân tích đoạn trích dưới đây: “Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về hướng đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cánh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam của thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chú được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng Vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất chả sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…” GỢI Ý 1.         MỞ BÀI* Khái quát vài nét về tác giả - tác phẩm-           Hoàng Phủ Ngọc Tường là một tri thức yêu nước gắn bó sâu sắc với quê hương. Là nhà văn có sở trường về bút kí, tùy bút. Tác phẩm của ông luôn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình; giữa nghị luận sắc bén với trình bày giàu chất thơ và sự vận dụng tổng là nhân hợp tri thức triết học, địa lí, lịch sử, văn hoá... Lối hành văn trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng nội, súc tích, mê đắm và rất mực tài hoa.-           Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được Hoàng Phủ Ngọc Tường viết năm 1981 bằng tình yêu, sự gắn bó hơn nửa cuộc đời với mảnh đất, cảnh vật, con người xứ Huế. Tác phẩm được in trong tập bút kí cùng tên năm 1986. Ban đầu, tác giả đặt tên là: Hương ơi, e phải mày chăng?-           Vị trí trích đoạn thuộc phần đầu của thiên tùy bút, khi nhà văn nhìn sông Hương trong vẻ đẹp tự nhiên, trong thủy trình của dòng sông từ nguồn ra biển. Đoạn trích là dòng chảy dòng sông khi ở ngoại vi thành phố. 2.         THÂN BÀIa.         Giải thích-           Sông Hương - người con gái hết mực nữ tính: Trong cảm quan của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên đậm thiên tính nữ. Ngay từ phần mở đầu, nhà văn đã nhân hóa sông Hương với hình ảnh cô gái Digan đầy phóng khoáng và man dại, là hình ảnh người con gái của rừng già với sức mạnh bản năng, một tâm hồn tự do trong sáng. Và đến đoạn trích này, sông Hương tiếp tục được nhìn nhận như một người gái đẹp say ngủ giữa cánh đồng Châu Hóa. Như vậy, có thể nói, sông Hương đã hiện lên qua áng văn Hoàng Phủ là người con gái hết sức vẹn toàn.-           Sông Hương - người con gái đa tình: Có thể hiểu ở đây đa tình nghĩa là giàu tình cảm. Hành trình sông Hương từ thượng nguồn ra biển là hành trình của một người con gái vượt qua bao gian nan để đến với người tình xứ Huế, do vậy, mà qua thiên tùy bút, sông Hương cǜng hiện lên hết mực đa tình.b.         Phân tích* Vẻ đẹp nữ tính-           Vẻ đẹp của dòng sông Hương trong đoạn trích, ngay từ câu mở đầu đoạn, đã hiện lên đậm thiên tính nữ: “Phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hỏa đầy hoa dại”. Hình ảnh nhân hóa sông Hương như một người gái đẹp say ngủ đã nói sự dịu dàng, vẻ kín đáo, sự quyến rũ của nó. Hình ảnh người gái đẹp với giấc ngủ mơ màng qua hàng trăm năm ấy khiến ta liên tưởng tới hình ảnh nàng công chúa cùng giấc ngủ trăm năm trong câu chuyện cổ tích.-           Khi người tình xứ Huế đến đánh thức, sông Hương đã choàng tỉnh và bắt đầu cuộc hành trình của mình.  Trong cuộc hành trình đó, sông Hương đã bộc lộ và tự trau dồi thêm cho vẻ đẹp, cho phẩm chất của mình, khiến cho vẻ đẹp của nó ngày càng toàn vẹn hơn:+ Vẻ đẹp của sông Hương là vẻ đẹp được tô điểm qua thử thách. Khi chảy qua lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, giống như là một bể lọc lớn, để nước sông Hương trở nên xanh thẳm, phải chăng giống như người con gái, sông Hương đang tự làm mới mình.+ Khi trôi qua những dãy đồi sừng sững, sông Hương phải uốn dòng chảy, và qua hướng chảy lắt léo đó, sông Hương đã phô ra được những đường cong quyến rũ của nó. Tại nơi đây, sông Hương mềm đi như một dải lụa.+ Đặc biệt hơn, khi uốn mình qua hai dãy đồi sừng sững như thành quách, những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố: “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”, hay nói cách khác, những ngọn đồi ấy đã tạo nên chiếc áo màu sắc để khoác lên mình người con gái Hương giang. Khiến cô gái ấy thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp.+ Nhưng Hương giang không chỉ có vẻ đẹp của nhan sắc, người con gái còn hiện lên trong vẻ đẹp của trí tuệ, của văn hóa và sự hiểu biết. Khi dòng sông chảy qua những đồi thông u tịch, nơi phong kín giấc ngủ ngàn năm của những vị vua chúa, dòng sông ấy mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, như cổ thi. Sự nghiêm trang, lặng lẽ và khẽ khàng của Hương Giang giống như người con gái ý tứ, lịch thiệp, không muốn làm kinh động đến giấc ngủ ngàn năm của các vị vua chúa.* Sông Hương người con gái đa tình-           Sông Hương ngoài vẻ đẹp nữ tính, còn hiện lên như một người con gái đa tình. Sự đa tình của Hương giang đã hiện lên qua cuộc hành trình của nó tìm đến với người tình xứ Huế. Ngay từ mở đầu của tùy bút, tác giả đã viết về sự đặc biệt của Hương giang khi nó chỉ thuộc về một thành phố duy nhất. Là người con gái yêu Huế, trọn đời chỉ có người tình Huế.-           Cuộc hành trình của Hương Giang từ nguồn đến với kinh thành Huế như sau: "Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển sang hướng tây - bắc vòng qua thềm  đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông - bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế". Có thể nói đó là cuộc hành trình dài, đầy những gian truân. Cuộc hành trình của sông Hương khiến ta liên tưởng tới câu ca dao: “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo/ Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”.-           Hành trình sông Hương từ khi bắt đầu đã được nhà văn miêu tả: “Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Như vậy, hướng chảy dòng sông, sự chuyển dòng của dòng sông, qua cảm quan nhà văn đó là một cuộc kiếm tìm rất rõ ràng, có ý thức và có mục đích. Hướng chảy ấy giống như bước chân của người con gái lần đầu, bỡ ngỡ, đến với tình yêu. 3.         KẾT BÀI-           Miêu tả sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường bộc lộ một vốn hiểu biết phong phú, một trí tưởng tượng bay bổng. Bằng giọng văn say đắm lòng người, nhà văn đã thổi hồn vào dòng chảy, thổi phẩm chất vào Hương giang bản tính của người con gái xứ Huế e lệ, dịu dàng, kín đáo nhưng cũng thật mãnh liệt.-           Với hơn nửa đời gắn bó cùng cố đô, nhà văn đã có một tình cảm sâu đậm với xứ sở này, và cũng như dòng sông, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với Huế cũng thật đậm đà, sâu nặng.

Hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà

Trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân viết: “Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà”. Phân tích “hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà” để thấy vẻ đẹp hình tượng người lái đò sông Đà. 1. MỞ BÀI “Ôi những dòng sông bắt nước từ đầuMà khi về đất nước mình thì bật lên câu hát”(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm) Tổ quốc Việt Nam có trong núi nghìn sông diễm lệ, có biết bao lời thơ, câu hát và trang vang đã cất lên để ngợi ca sông núi. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân là một trường hợp như thế. Tác phẩm không chỉ thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo mà còn bộc lộ tấm lòng gắn bó sâu sắc của nhà văn đối với mảnh đất, con người miền Tây Bắc Tổ quốc. Nguyễn Tuân đã viết: “tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà”. 2. THÂN BÀI 2.1. Khái quát Nguyễn Tuấn là nhà văn uyên bác, tài hoa có phong cách nghệ thuật độc đáo. Ông đặc biệt say mê với những vẻ đẹp tuyệt mĩ, những con người chí dũng tài hoa, những cảnh tượng hùng vĩ, dữ dội. “Người lái đò sông Đà” là thiên tùy bút xuất sắc của Nguyễn Tuân, in trong tập tùy bút “ Sông Đà” (1960) kết quả của chuyến đi thực tế l ên vùng Tây Bắc của Nguyễn Tuân vào năm 1958. Trong tác phẩm, nhà văn đã xây dựng được hai hình tượng mang đậm dấu ấn phong cách độc đáo, để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc hình tượng sông Đà hùng vĩ, hung bạo mà thơ mộng trữ tình và hình tượng người lái đò sông Đà trí dũng tài hoa. 2.2. Phân tích a. Cuộc chiến đấu gian lao bởi tương quan không cân sức giữa người lái đò với sông ĐàLà nhà văn của những cảm giác mãnh liệt luôn có hứng thú đặc biệt với núi cao, rừng sâu, với gió bão và thác ghềnh dữ dội, ngòi bút của Nguyễn Tuân tung hoành sảng khoái giữa dòng thác ngôn từ. Trước khi miêu tả trực t iếp cuộc vượt thác, nhà văn tô đậm vẻ dữ dội, nguy hiểm của thác nước và thạch trận Sông Đà. Có lẽ, khủng khiếp nhất trong “Diện mạo và tâm địa của kẻ thù số 1” của con người phải là thác đá sông Đà. Khi còn xa mới tới thác, Nguyễn Tuân đã miêu tả âm thanh tiếng nước thác bằng những từ ngữ chỉ cảm xúc, thái độ, tâm trạng của con người: Khi “oán trách… van xin”, khi “khiêu khích”, “giọng gằn và chế nhạo”.... khi “rống lên”. Nghệ thuật nhân hóa đã khiến thác nước sông Đà thực sự trở hành một sinh thể sống trong giận dữ, gầm gào, đe dọa con người ngay cả khi nó chưa xuất hiện. Đặc sắc nhất là những phép so sánh kỳ thú trong một câu văn dài đầy ắp những hình ảnh dữ dội với “hàng ngàn con trâu đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre, nứa, nổ lửa... rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu ra cháy bùng bùng” nhà văn đã thể hiện tài hoa, độc đáo hình ảnh gợi tả âm thanh, khi đặt những hình ảnh tương phản trong một trường liên tưởng bất ngờ, thú vị lấy lửa tả nước, lấy rừng tả sông… Khi thác hiện ra, sau câu văn ngắn giống như tiếng reo ngỡ ngàng, thích thú: “Tới cái thác rồi”, nhà văn đã đồng thời tả cả đá và nước thác trong hình ảnh: “Sóng bọt đá trắng xóa cả một chân trời đá” . Tính từ “trắng xóa” lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về sông, về gió, về bọt nước trào sôi mãnh liệt, cù ng với hình ảnh “chân trời đá”, câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân đã làm hiện ra sự hùng vĩ tới choáng ngợp của thác đá sông Đà ngay trong những ấn tượng đầu tiên khi vừa gặp mặt. Đá sông Đà cùng với nước, với sóng và gió kết hợp với nhau cùng lúc tấn công uy hiếp con người đã được nhà văn miêu tả qua một hình ảnh nhân hóa đặc sắc: “Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục…, mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện…. là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”. Với tâm địa độc ác, sông Đà bày thạch trận trên sông, để “ăn chết” cái thuyền đơn độc đi qua nó. Rõ ràng trong tương quan không cân sức: con người nhỏ bé trước sức mạnh hung bạo, dữ dội của dòng sông. Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến hàng ngày với thiên nhiên, cuộc đấu tranh với thiên nhiên để dành sức sống từ tay nó về tay mình. b. Cuộc chiến đấu gian lao thể hiện trong diễn biến cuộc vượt thác, vượt thạch trận sông Đà VÒNG VÂY 1- Sông Đà: Ở trùng vi thứ nhất, sông Đà chia thành 5 cửa trận, trong đó có 4 cửa tử và 1 cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông. Vừa vào thạch trận “Sóng, nước, đá sông hò la vang dậy”, ùa vào định “bẻ gãy cán chèo” trên tay người lái đò. Sóng nước như một đám quân liều mạng xông vào “Đá trái, thúc gối vào bụng, vào hông thuyền”. Nước như một đồ vật “túm thắt lưng đò đòi vật ngửa mình ra trận nước vang trời thanh la não bạt” rồi đánh miếng “đòn hiểm” vài chỗ “hạ bộ” của người lái đò. - Thái độ, hành động của người lái đò: Khi “thạch trận dàn bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới “sẵn sàng lao thẳng vào trận địa dù tương quan không cân sức, không sợ hãi, không né tránh. Khi bị đòn hiểm độc, mắt ông như thấy “một cửa bể đom đóm” nhưng “hai tay giữ mái chèo, ông cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo xệch, kiên cường nén chịu vết thương thể xác. Trên con thuyền vẫn nghe tiếng chỉ huy ngắn gọn của người cầm lái, tư thế, thái độ bình tĩnh hiên ngang của người chỉ huy trong cuộc chiến. Ông lái đò thật sự là một người lão luyệ n, luôn bình tĩnh, dũng cảm, biết nén mọi đau đớn để chiến thắng đối thủ hiểm ác của mình. Dáng vẻ ông đò hiên ngang như chiến tướng vững vàng, dày dặn kinh nghiệm trên chiến trường sông nước. VÒNG VÂY 2- Sông Đà: Ở trùng vi thứ hai, kẻ địch thay đổi chiến thuật. Chúng tăng thêm nhiều cửa tử, cửa sinh lại bố trí lệch sang phía bờ hữu ngạn nhằm đánh lừa con thuyền. Chúng bộc lộ mặt nham hiểm xảo quyệt. “Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạn trên sông đá” - thiên nhiên hùng mãnh thú dữ”. “Đám thủy quân” địch “níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử”. Đá, nước sông Đà dai dẳng, quyết liệt quyết tâm diệt con thuyền, con người.- Thái độ, hành động của người lái đò: Ông lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá” nên đã nắm chặt được bờm sóng “Đúng luồng” rồi “ghì cương lái” , “phóng nhanh vào cửa sinh”. Bọn tướng đá, đứa thì “ông tránh mà rảo bơi trèo lên”, đứa thì bị “ông sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến”. Cuối cùng ông thắng mà bọn tướng thì thất bại thảm hại. Những động tác thành thạo, chính xác, uyển chuyển, linh hoạt, không chút lỡ tay lệch nhịp, toát lên sự điêu luyện thuần thục của một nghệ sĩ tài hoa. VÒNG VÂY 3- Sông Đà: Ở trùng vi thứ 3, ít cửa hơn, bên trái, bên phải đều là luồng chết cả, các luồng sống ngay ở giữa con thác. Lời văn miêu tả ngắn, ít nhưng mức độ nguy hiểm của thạch trận sông Đà không giảm, thậm chí đáng sợ hơn.- Thái độ, hành động của người lái đò: Ông đò như một người chỉ huy dày dặn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng của giữa đó. Hành động dũng mãnh, thần tốc, động tác nhanh gọn, dứt khoát, phá tan trận địa đá nước sông Đà, giành lấy sự sống từ thác dữ. Ông lái đò trở thành người anh hùng chiến thắng trong cuộc chiến hoàn toàn không cân sức, “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được”. Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng nước của sông Đà. Trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh dũng vừa dũng cảm, thông minh, vừa thật là tài hoa. Câu văn ngắn, nhịp văn gấp, hơi văn nhanh mà nhẹ,tạo cảm giác con thuyền - con người như bay lượn trên sóng thác sông Đà, phong thái ung dung, không gì có thể cản trở, gây khó dễ được. Đó thực sự là người nghệ sĩ điêu luyện, tài h oa, tay lái ra hoa trong nghệ thuật vượt thác ghềnh. 2.3. Khái quát, đánh giá - Khắc họa hình ảnh chiến đấu gian lao trên một quãng thủy chiến ở mặt trận sông Đà, trên thác hiên ngang một người lái đò có tự do, một lần trong hàng trăm lần chiến thắng sóng nước, thác đá dữ dội, nhà văn Nguyễn Tuân tô đậm vẻ đẹp của nhân vật. Một thổ công sông nước - một anh hùng trên chiến trường sông nước - Một nghệ sĩ tay lái ra hoa trong nghệ thuật vượt thác lao ghềnh.- Qua đó, tác giả thể hiện niềm khâm phục, say mê ngợi ca vẻ đẹp của những người lao động bình dị vô danh.- Nghệ thuật khắc họa vẻ đẹp hình tượng nhân vật: Tạo tình huống thử thách làm nền cảnh tỏa sáng vẻ đẹp nhân vật, thủ pháp tương phản, tri thức uyên bác, nhiều l ĩnh vực, giàu hình ảnh, nhiều so sánh, liên tưởng độc đáo, ngôn ngữ phong phú, nhịp điệu câu văn linh hoạt…. 3. KẾT BÀI “Người lái đò sông Đà” chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi ý chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh của dòng sông hung dữ. Ông lái đò là hình ảnh tuyệt đẹp về người lao động bình thường nhưng tài ba, chí dũng. Nguyễn Tuân đã miêu tả ông lái bằng một trí tưởng tượng bay bổng, vốn từ vựng phong phú, đa dạng, chọn lọc, sử dụng tri thức hội họa, điện ảnh, võ thuật, quân sự một cách tài hoa, uyên bác để diễn tả sinh động, tài nghệ của nhân vật. Nguyễn Tuân miêu tả ông lái đò với tấm lòng quý mến và khâm phục, coi ông như chất vàng mười của Tây Bắc. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và nghệ thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng mười - người quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm trí ta, giúp ta biết yêu hơn tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.

Vẻ đẹp thiên tính nữ trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

Lịch sử văn hóa dân tộc gắn liền với bao dòng sông vừa hùng vĩ vừa bình dị, thân thương mà đầy ý nghĩa. Những con sông ấy đã in dấu vào các sáng tác văn chương rất sâu, rất đẹp. Đó là dòng sông Như Nguyệt gắn với chiến thắng quân Tống của Lý Thường Kiệt và bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Nam quốc sơn hà; là dòng sông Bạch Đằng ghi dấu bao chiến công khiến Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu phải dừng chân bâng khuâng với bao cảm xúc (Bạch Đằng hải khẩu, Bạch Đằng giang phú); là sông Đà hùng vĩ mà nên thơ, trữ tình trong những trang tùy bút của Nguyễn Tuân (Người lái đò sông Đà); hay dòng sông bình dị của quê hương đã làm nên tên tuổi “nhà thơ quê hương” Tế Hanh… Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, bài bút kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là bài kí đặc sắc về dòng sông Hương của xứ Huế quê hương ông.Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn chuyên viết về bút kí. Đọc tác phẩm của ông, ta dường như đắm chìm trong giọng văn nhẹ nhàng, tài hoa và giàu chất trí tuệ. Hình ảnh dòng sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? hiện lên trong chỉnh thể vẻ đẹp của tự nhiên, văn hóa và lịch sử. Điều đặc biệt là hình tượng sông Hương trong bài kí đã mang đạm vẻ đẹp thiên tính nữ vừa dịu dàng, mềm mại, vừa say mê, cuốn hút và quyết rũ.Trước tiên, ta có thể nhận thấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương như một người nữ. Nhà văn sử dụng thủ pháp nhân hóa, so sánh rất thành công. Ông trực tiếp gọi tên dòng sông quê hương là cô gái Di – gan, người con gái, người mẹ phù sa, người gái đẹp, người tài nữ đánh đàn, nàng Kiều trong đêm tình tự. Mỗi tên gọi đều gợi lên hình ảnh dòng sông như người phụ nữ dịu dàng và xinh đẹp. Giữa rừng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời “như một cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”. Trong hình dung của nhiều người, sông Hương vốn hiền hòa, trầm mặc và dịu dàng như chính xứ Huế và con người lặng lẽ nơi đây. Bởi vậy, hình ảnh so sánh của Hoàng Phủ Ngọc Tường thật độc đáo và mới mẻ, đem lại cho người ta một cảm nhận mới về dòng sông này. Những cô gái Di – gan du mục vốn nổi bật với vũ điệu mạnh mẽ, cuốn hút, quyến rũ và đầy cá tính. Hình ảnh đó làm ta liên tưởng đến cô gái Bôhêmiêng xinh đẹp, phóng khoáng, tự do với cá tính và vũ điệu say mê trong “Nhà thờ Đức Bà Paris” của V.Huy-gô. Và sông Hương trong mối quan hệ so sánh đặc biệt ấy đã hiện lên với những sắc màu, cung bậc cảm xúc đối lập mà thống nhất “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc … dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Dòng sông trải qua hành trình dài trong tự nhiên có vẻ đẹp đầy bí ẩn lôi cuốn – vừa mạng mẽ dữ dội, vừa nhẹ nhàng say đắm. Tác giả tập trung thể hiện những cung bậc, dáng vẻ đối lập của dòng sông, nhưng đặc biệt nhấn mạnh sự dịu dàng, say đắm rất đặc trưng của nữ tính.Sự chuyển đổi cách gọi sông Hương khắc họa thêm một vẻ đẹp khác của nó. Trài qua sự chế ngự của rừng già, dòng sông được “chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình” để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Từ bản năng phóng khoáng, man dại của cô gái Di – gan, dòng sông trầm tích vào trong mình vẻ đẹp dịu dàng, chở che của người mẹ. Sông Hương trở nên trầm mặc, lặng lẽ, ấm áp và bao dung. Hành trình của dòng chảy khiến ta hình dung chặng đường đời của người phụ nữ. Từ một cô gái phóng khoáng, mãnh liệt và đầy mê say, trải qua những thử thách, gian truân, người con gái trở nên mạnh mẽ, đặc biệt là khi trở thành người mẹ, người phụ nữ trầm tính, dịu dàng và có chiều sâu hơn. Người con gái – sống Hương đã từng bước đổi thay và trưởng thành qua từng chặng đường của dòng chảy như thế. Như vậy, dù ở khía cạnh nào, trong hành trình và vẻ đẹp tự nhiên vốn có của dòng sông, tác giả vẫn nhìn nhận nó ở khía cạnh nữ tính với những cung bậc đối lập và thống nhất trong một sinh thể: phóng khoáng mà trầm mặc, man dại, mãnh liệt mà dịu dàng; tự do, cuốn hút đầy bản năng mà chở che, ấm áp…Trong dòng chảy tự nhiên, sông Hương có lúc như một cô gái Di – gan phóng khoáng, cuốn hút, có lúc lại thâm trầm, lặng lẽ và từng trải như một người mẹ với bản nang chở che. Còn trong mối quan hệ với vẻ đẹp văn hóa xứ sở, dòng sông trầm tích trong mình cả nền văn hóa xứ Huế, lặng thầm chất đầy nỗi niềm bí ẩn như điệu tâm hồn, nhịp sống bình lặng hàng ngàn năm của xứ sở. Trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước, “sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Một trong những nét đặc trung của Huế là ca Huế trên sông Hương khi đêm xuống. Dòng sông trở thành người tài nữ đánh đàn nghĩa là sông Hương như một nữ nghệ sĩ tài hoa, mang đặc trưng văn hóa và điệu hồn xứ Huế. Đó là một nét nữ tính làm nên sự dịu dàng, nữ tính, đầy bí ẩn. Đồng thời, hình ảnh sông Hương chia tay với xứ Huế đầy lưu luyến như không nỡ xa rời ở góc thị trấn Bao Vinh cổ xưa còn được ví với nàng Kiều trong đêm tình tự, “sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi ra biển cả”. Cảm nhận của tác giả về sông Hương qua khúc rẽ trái này lại giống như một người con gái chung tình và đầy lưu luyến.Sông Hương được nhân hóa, so sánh để hiện lên như một con người cụ thể và sống động, đặc biệt thể hiện trực tiếp qua các cách gọi mang tính nữ về một dòng sông huyền diệu. Dòng sông khi thì là cô gái, khi là người mẹ, khi lại là người tài nữ, cũng có khi là nàng Kiều đi vào thi ca dân tộc và nhân loại. Dù các cách gọi khác nhau, tất cả vẫn gợi lên ấn tượng một dòng sông xinh đẹp, phóng khoáng, hấp dẫn, cuốn hủ đầy say mê mà vẫn dịu dàng đằm thắm, chất chứa chiều sâu tâm hồn kín đáo. Đó là vẻ đẹp thiên tính nữ đặc trưng và đáng yêu.Bên cạnh đó, sông Hương còn được nhìn nhận ở cả vẻ đẹp bên ngoài đầy hấp dẫn. Tác giả cảm nhận dòng sông như một thiếu nữ xinh đẹp cuốn hút “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”. Hình ảnh này gợi lên cho ta liên tưởng về những câu chuyện cổ tích xa xôi, lãng mạn, về người đẹp ngủ quên được chàng hoàng tử đến đánh thức bằng tình yêu. Sông Hương tự như người đẹp ngủ quên giữa cánh đồng đầy hoa dại, gợi lên vẻ đẹp yêu kiều, mơ màng và lãng mạn, đầy nữ tính.Ngòi bút miêu tả sống động, nhiều câu văn nhịp nhàng, giàu so sánh cũng gợi lên hình ảnh sông Hương duyên dáng, xinh đẹp và nhẹn nhàng. Dòng sông mềm mại như người thiếu nữ “uốn mình theo những đường cong thật mềm”, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ … đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tác giả cảm nhận sông Hương trong dòng chảy với những đường cong mềm mại, nhẹ nhàng như làm duyên, phô diễn vẻ đẹp của mình, và ẩn chứa một niềm tự hào chưa cất lên thành lời. Hoàng Phù Ngọc Tường đặc biệt nhấn mạnh những đường cong rất nữ tính ấy, bởi một mặt đó là vẻ đẹp hình thể của một dòng chảy nhiều uốn lượn của sông Hương đem lại cho con sông hình dáng yểu điệu, mềm mại hấp dẫn. Mặt khác, người đọc cũng cảm nhận thêm được vẻ đẹp dịu dàng, e lệ, kín đáo rất đáng yêu cho dòng sông, …Ai đã đặt tên cho dòng sông? là bái bút kí đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường với cách viết tài hoa, trí tuệ, uyên bác xen lẫn với giọng văn nhẹ nhàng, chan chứa niềm cảm xúc mến yêu. Hình ảnh dòng sông Hương được khắc họa nổi bật với vẻ đẹp vừa nữ tính vừa xinh đẹp, duyên dáng đáng yêu, vừa phóng khoáng, mãnh liệt đầy say mê, vừa dịu dàng, đằm thắm, thâm trầm, kín đáo. Cách cảm nhận sông Hương với vẻ đẹp thiên tính nữ ấy đem lại cho sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường một nét dáng, hình dung riêng so với sông Hương trong cảm nhận của Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan, Tố Hữu. Và điều quan trọng trong nghề văn chính là tác giả đã in được dấu ấn riêng, có được cách cảm nhận riêng không lẫn với ai. Hoàng Phủ Ngọc Tường – người con của xứ Huế – viết về dòng sông quê đã ghi lại được một dấu ấn riêng như thế! * Bài viết của cô Phạm Thanh Lê – Giáo viên trường THPT Chuyên Phan Bội Châu, TP. Vinh, Nghệ An, được in trong Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ số 11, năm 2015.

Tính cách trữ tình của sông Đà qua ngòi bút Nguyễn Tuân

Cảm nhận vẻ đẹp của Sông Đà qua đoạn văn sau:“Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp có gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiềnsử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên một mũi đò. Hươu vểnh tai, nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi tôi bằng cái tiếng nói riêng của con vật lành: “Hỡi ông khách Sông Đà, có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng còi sương?”. Đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến. Thuyền tôi trôi trên “Dải Sông Đà bọt nước lênh bênh - Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình” của ‘‘một người tình nhân chưa quen biết" (Tản Đà). Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên.”(Trích Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân) BÀI VIẾT:Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.Nếu ví người lái đò sông Đà như bản trường ca với những cung bậc khi mãnh liệt lúc réo rắt ngân vang thì đoạn văn trên là một khúc ca êm ái nhất. Không những thế đoạn văn còn như một bài thơ, với những ý tưởng vần điệu nhịp nhàng, mềm mại. Ở những giai đoạn trên, ta bắt gặp một con thuyền chiến của người lái đò, còn đây là một con thuyền thơ của một hồn văn đầy chất thơ. Nhưng phải chăng vì cả ông lái đò và tác giả đều là người nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình nên cả hai con thuyền đều là thuyền thơ, chỉ khác là một tứ thơ dữ dội, khốc liệt và một tứ thơ êm đềm, dịu dàng. Hòa vào tứ thơ ấy, không gian liên tưởng của người đọc cứ mở ra mãi nhờ những cách so sánh.Các nhà văn khác thường so sánh cụ thể hóa sự vật còn Nguyễn Tuân, ông so sánh để làm vạn vật trở nên kích thích, mở rộng trí tưởng tượng. Hãy nghe cách so sánh của ông: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cố tích tuổi xưa”. Từ một hình ảnh cụ thể, hữu hình “ bờ sông” gợi đến bao cái vô hình “ bờ tiền sử”, “ nổi niềm cổ tích tuổi xưa”. Câu trên nghe hoang vắng, xa xăm. Câu dưới òa ập, xôn xao cảm xúc.Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khi tả Sông Đà “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại.Tiếp nối sức mạnh quá khứ là hình ảnh bờ sông – bờ tiền sử. Và khi nhà văn “thèm được giật mình vì tiếng còn xe lửa” thì tương lai đã náo nức reo vui. Cứ thế văn Nguyễn Tuân đưa người đọc từ thế giới này đến thế giới khác một cách uyển chuyển khéo léo. Và phải chăng, Nguyễn Tuân đã viết văn đúng như quan niệm về thơ của ông “từ một cái hữu hình nó thức dậy được những cái vô hình bao la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được một cái diện không gian thời gian”, khi so sánh bờ sông như vậy?Ngoài ra, ông còn đem vật thể so sánh với tình cảm, cảm xúc trong hình ảnh” một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa hay như “Dòng sông quãng này lững lờ như nhớ thương… Con sông như đang lắng nghe…” Nguyễn Tuân đã nhập thân vào dòng sông để lắng nghe và xúc động, lòng dâng đầy chất thơ. Mơ mộng thay khi nối tiếp những vần thơ bập bềnh sông nước của Tản Đà là những cảm xúc rất thơ như thế! Thế giới vật chất, thế giới tinh thần xa xăm cứ thế mà nối qua những liên tưởng của nhà văn. Con sông đang “nhớ thương”, đang “lắng nghe” hay chính nhà văn đang thương nhớ, lắng nghe những tâm tình của cuộc sống?Chất thơ của đoạn trích còn thể hiện ở cách viết văn như thơ của Nguyễn Tuân. Câu mở đoạn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” êm êm những thanh bằng như một câu lục trong thơ lục bát. Vần lưng “ tôi trôi” và điệp âm “t” gợi hình ảnh con thuyền nổi bênh trên mặt sông. Những thanh ngang nằm giữa hai thanh bằng hai đầu câu văn như tạo một khoảng ngưng đọng cho cảm xúc. Thuyền trôi mà như không trôi, như tình cảm cứ đọng mãi, chất chứa trong thuyền. Và cụm từ “ thuyền tôi trôi” ấy cứ như một điệp khúc bằng lặng trong suốt cả đoạn văn. Đây là một kiểu trùng rất đặc trưng của thơ hay cũng là sự điệp trùng của cảm xúc.“Thuyền tôi trôi qua một nương ngô..”, “thuyền tôi trôi trên dải sông Đà…” tưởng như thuyền hồn người đọc cũng xuôi lặng theo dòng tâm tư khởi toàn thanh bằng nhẹ bỗng như thế. Hồn người như tan ra hòa cùng cảnh sắc. Con thuyền cũng trôi trên một dòng sông cũng lững lờ trôi theo những câu văn ngắn, chảy dài, chảy dài theo những câu văn dài. Có phải câu văn cứ khi dài, khi ngắn linh hoạt như dòng chảy lúc nhanh lúc chậm của con sông?Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dân trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ trở đầy tâm trạng.Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.Những câu văn tươi xanh như thức dậy phần non tơ nhất của hồn người, thức dậy một ý thơ của Xuân Diệu “Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non”. Có thể hình dung đây là một buổi sớm mùa xuân tinh khôi, mùa xuân của cuộc sống và mùa xuân của lòng người. Mỗi câu văn “đẫm sương” ấy là một nét vẽ, tưởng như hòa vào nhau song tách bạch rất rõ rang. Một màn sương cứ rải nhẹ trong tâm trí độc giả, như nhắc nhở bao huyền thoại xa xưa, bao không gian cổ tích diễm ảo. Ta như cùng Nguyễn Tuân ngây ngất đắm say những nét diệu kỳ nhất của tạo hóa. Có một sự sống của mình trong ba thanh trắc “nhú”, “mấy”, “ lá”, có một cái gì mềm mại trong “đầu nhung”. Và ấn tượng nhất là cỏ, ta chỉ nghe “ngọn cỏ”, “sóng cỏ” nhưng “búp cỏ”, “áng cỏ sương” thì có lẽ chưa bao giờ.Nếu thi hào dân tộc Nguyễn Du tả ngọn cỏ như một minh chứng cho sự đồng điệu đến kỳ lạ của thiên nhiên đối với con người thì Nguyễn Tuân nay đã đưa ngọn cỏ lên khía cạnh thơ nhất, đẹp nhất. Màu xanh của bờ đồng cỏ mênh mông đã nhuộm non cả đoạn văn - bài thơ của Nguyễn Tuân.Bài thơ cuối ấy còn đạt đến chất thơ tuyệt vời bằng nghệ thuật cổ điển lấy động tả tĩnh. Khung cảnh lặng tờ đến nỗi tác giả cảm nhận được cả tiếng cá quẫy. “Tiếng cá đập nước sông đuồi mất đàn hươu vụt biến”. Phải chăng đó cũng là khoảng lặng trong tâm hồn của Nguyễn Tuân để hứng lấy những âm thanh nên thơ của sự sống, một sự sống trỗi mình trong lá ngô non, búp cỏ non mạnh mẽ trong tiếng đập nước của cá?Đàn hươu hiện ra chạy mất, phải chăng trong đoạn văn mơ mộng của Nguyễn Tuân, mọi vật đều trở nên hiền lành đến mức thơ ngây nhất? Từ một cái diện mênh mang một điệp khúc xanh của ngô non, áng cỏ, nhà văn điểm vào sắc trắng của bụng cá. Nghệ thuật hội họa cổ điển đã được vận dụng, khám phá mọi vẻ thơ ngây của cuộc sống.Trong không gian u huyền ấy bỗng tác giả “thèm được giật mình vì một tiếng còi sương”. Đặt vào hoàn cảnh chưa có chuyến tàu nào đi Phú Thọ - Yên Bái – Lai Châu, câu văn như một tiếng reo náo nức của tác giả trước công cuộc xây dựng miền Bắc (1958 – 1960). Khi ấy, Tố Hữu đã cho ra đời những vần thơ đẹp."Yêu biết mấy những dòng song bát ngátGiữa đôi bờ dào dạt lúa ngô nonYêu biết mấy những con đường ca hátQua công trường mới dựng mái nhà son."Tiếng còi sương là ảo, là âm thanh trong tâm tưởng nhưng lại nói lên một ước vọng rất thực tế của nhà văn. Thèm được nghe một tiếng còi xa lửa đã quý, như Chế Lan Viên: "Mắt ta them mái ngói đỏ trăm ga." (Tiếng hát con tàu)Nhưng “thèm giật mình” thì lại càng quý hơn bởi Nguyễn Tuân khao khát cái cảm giác khi được nghe tiếng còi Tây Bắc mở mang. Ta đã từng trân trọng cái giật mình vì phẩm giá “thương mình xót xa” của Kiều, cảm thông cái giật mình hoài nhớ của Tú Xương khi “vẳng nghe tiếng ếch” thì nay ta lại nâng niu thêm một cái giật mình ước tương lai của tác giả sông Đà. Và như thế đoạn văn của sông Đà của Nguyễn Tuân đã là văn chương mới của một thời đại mới.Trước Cách mạng, ông đã từng “xê dịch” để tìm những cảm giác mới lạ, để trốn tránh trách nhiệm thì sau ngày đổi đời của dân tộc, ông lại đi để tìm hình ảnh quê hương và nhận chân trách nhiệm của mình. Thưởng ngoạn nhưng không quên vì người, vì cuộc sống mới, quả thật văn Nguyễn Tuân đã “hợp lưu” với lòng người đọc dễ dàng nhờ những suy nghĩ như thế. Hòa cùng tiếng hát của con tàu thơ Chế Lan Viên, một tiếng còi sương của Nguyễn Tuân, mái nhà sơn của Tố Hữu, “Ngói mới” của Xuân Diệu… đã góp thành sắc mới của thơ văn phản ánh màu mới của quê hương đất nước. Cuộc sống mới đã ngấm vào cảnh vật, và con hươu thơ như cũng lắng nghe tiếng còi sương. Cảnh vật có màu sắc, âm thanh dù là trong tâm tưởng.Một tứ thơ xưa đọng lại nơi quãng sông càng làm tăng chất thơ: “Dải sông Đà bọt nước lên đênh. Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình.” Nguyễn Tuân đã chọn câu thơ hết sức trữ tình của nhà thơ quê hương sông Đà, sống hết lòng với sông Đà. Câu thơ ấy hòa với những câu văn đẹp như thơ của Nguyễn Tuân đã “đề thơ” vào sóng nước Đà giang như khẳng định sự tồn tại của một sinh thế có hồi, coi sông Đà như một bạn đồng hành? Đưa vào câu thơ của Tản Đà, đoạn văn, bỗng dậy lên hơi thở nồng ấm, quấn quýt của tình người, tình yêu. Tình đã nồng cho nên những câu văn tiếp theo chất chứa cảm xúc “nhớ thương”, “ lắng nghe những giọng nói êm êm”.Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.Lê Thị Thúy Hằng (Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – TP Hồ Chí Minh) - Thầy Phan Thế Hoài.

Tính sử thi trong "Rừng xà nu" của Nguyễn Trung Thành

Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 là văn học sử thi. Cảm hứng anh hùng ca (sử thi) xuất hiện trong hầu hết các sáng tác văn xuôi thuộc giai đoạn này. Nhưng có lẽ, tác phẩm thể hiện đầy đủ nhất và sinh động nhất tính chất sử thi của văn xuôi cách mạng Việt Nam là truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành.Tác phẩm này có nhiều điểm đặc biệt so với các truyện ngắn cùng thời. Khi nói đến khái niệm sử thi trong văn học hiện đại, người ta hiểu thuật ngữ này theo nghĩa rộng, tức là “tính chất sử thi”. Rừng xà nu không chỉ mang đặc điểm của sử thi hiện đại mà còn có dáng dấp của “thể loại” sử thi cổ điển. Câu chuyện đã gợi cho người đọc nghĩ về một thế giới xa xưa với phương thức sản xuất cổ truyền, với một bộ lạc (dân tộc) sống trong núi rừng và đứng đầu là một vị thủ lĩnh đạo cao đức trọng, vẫn là những hoạt động thu hút được sự tham gia của toàn thể cộng đồng mà ta vẫn thường thấy trong các sử thi Tây Nguyên như lao động và sinh hoạt văn hoá... Nhưng đề tài nổi bật nhất của các sử thi hiện đại vẫn là chiến tranh. Hêghen cho rằng: “Tình huống phù hợp nhất với sử thi là các xung đột của trạng thái chiến tranh. Thực vậy, trong chiến tranh, chính toàn bộ dân tộc đang vận động (Mĩ học). Truyện Rừng xà nu lại ra đời vào một thời điểm quan trọng: năm 1965, Mĩ đổ quân vào Việt Nam. Bởi vậy, có thể nói, truyện ngắn này đã phản ánh một xung đột mang “tầm cỡ sử thi”.Bối cảnh câu chuyện lùi về trước đó một chút, là thời điểm mang tính bước ngoặt trong việc lựa chọn giữa hai con đường “chết vinh hay là sống nhục”. Dân làng Xô Man ủng hộ cách mạng. Giặc tàn sát dã man, treo cổ anh Xút, chặt đầu bà Nhan, dùng “trận mưa cây sắt” để giết Mai và đứa trẻ sơ sinh, đốt mười ngón tay Tnú… “Tức nước” ắt phải “vỡ bờ”, dưới sự lãnh đạo của “tù trưởng”, các dũng sĩ của dân tộc Strá cầm giáo mác lao vào chém giặc. “Tiếng chiêng nổi lên (...). Suốt đêm nghe cả rừng Xô Man ào ào rung động Và lửa cháy khắp rừng”. Thông qua nỗi đau ghê gớm của Tnú và dân làng Xô Man, tác giả muốn khẳng định con đường tất yếu của họ là đến với cách mạng. Ngoài ra, cũng giống như chủ đề của nhiều sử thi khác, tác phẩm này có mục đích ôn lại truyền thống hào hùng, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và lòng dũng cảm của những anh hùng đại diện cho lợi ích dân tộc và kêu gọi nhân dân sẵn sàng vùng lên đánh đuổi giặc thù (cụ Mết kể lại cho mọi người, nhất là lũ trẻ nghe “kì tích” về anh hùng Tnú cũng là nhằm mục đích đó).Nhân vật chính của sử thi là những anh hùng có phẩm chất cao cả hiện thân cho lợi ích cộng đồng. Tnú là người có đầy đủ những phẩm chất đẹp đẽ của dân làng và cách mạng. Đức tính nổi bật nhất của anh là lòng dũng cảm. Tham gia cách mạng từ nhỏ, bị bắt, vượt ngục, anh lại đến với cách mạng. Nhờ sư mưu trí và gan dạ mà anh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngọn lửa bốc cháy trên mười đầu ngón tay Tnú là một bằng chứng thiết thực nhất về lòng trung kiên với cách mạng. Anh còn có tình yêu thương sâu sắc. Vì thương vợ con mà phải liều mình cứu vợ con, vì thương dân làng mà phải đi đánh giặc để dân làng được bình yên. Đi chiến đấu, “nỗi nhớ day dứt lòng anh” là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của dân làng. Có thể nói, Tnú là người anh hùng thuộc về quần chúng. Nói như Biêlin xki: “nhân vật của anh hùng ca phải là người đại diện xứng đáng của tinh thần dân tộc”.Văn học cách mạng rất chú trọng đến vai trò của tập thể quần chúng. Trong rừng xà nu, nói đến sự thành công của cách mạng là phải kể đến vai trò của dân làng, mà đứng đầu là cụ Mết. Tất cả họ đều “muôn người như một” chung một lí tưởng, cùng tự hào về truyền thống vẻ vang của buôn làng. Cụ Mết là hiện thân cho truyền thống bất khuất đó. Qua các hoạt động và lời ăn tiếng nói của họ, ta thấy phảng phất hình ảnh của thời Đam San, Xinh Nhã. Khi cộng đồng đã quyết làm chuyện gì thì không ai đứng ngoài. Ngay cả lối tư duy cũng giống nhau. Một thằng Dục chết rồi, cả dân làng còn cố gắng giết nhiều thằng Dục hơn nữa. Vì họ tin rằng “chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”. Khi bắt được một thằng lính khúc, Tnú hỏi: "Dục, mày có nhớ tau không?”. Nguyễn Trung Thành đã rất tài tình khi thể hiện được bản sắc riêng độc đáo của đồng bào dân tộc miền núi Tây Nguyên. Ông không chỉ chú ý đến cái chung mà còn khắc hoạ được cả nét riêng sinh động của một cộng đồng hoặc một cá nhân. Cụ Mết có những nét khác người: Thân hình quắc thước, râu dài tới ngực, mắt sáng xếch ngược vết sẹo trên má láng bóng, bàn tay nặng trịch như cái kìm sắt! Giọng nói “ồ ồ” “vang vang”, và chỉ nói “được” những lúc cho là tốt nhất. Tnú có một số phần cũng chẳng giống ai trong buôn làng: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, vợ con chết, bị cụt mười đầu ngón tay. Tác giả còn miêu tả cả nhược điểm của anh là học chữ thua kém Mai (nhét chữ vào đầu không vô) đã nổi nóng đập bể bảng nứa và “đòi đánh Mai”, rồi”... cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng”. Đưa ra chi tiết gân guốc này, tác giả muốn cho nhân vật có sức thuyết phục bạn đọc. Cũng như chúng ta nhớ đến Asin là nhớ đến cơn giận dữ điên cuồng của chàng, nhưng như Hêghen bênh vực: “Chúng ta không cần tha lỗi cho chàng về chỗ đã nổi giận, bởi vì chàng có nhiều ưu điểm khác” (Mĩ học).Ngôn ngữ của Rừng xà nu cũng mang đậm tính sử thi. Đó là giọng điệu ngợi ca, thành kính trước vẻ đẹp của những anh hùng (Tnú, cụ Mết...). Tác giả dùng những lời trang trọng nhất để nói về họ. Cũng giống như sử thi Ôđixê, phần lớn câu chuyện được thể hiện thông qua lời kể của nghệ nhân sử thi (cụ Mết). Với mục đích kêu gọi chiến đấu, ngôn ngữ của người kể chuyện mang âm hưởng sôi nổi hào hùng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”. Lời kêu gọi của cụ Mết thể hiện rất rõ lối điệp từ ngữ quen thuộc của sử thi. Vì ngày xưa, sử thi tồn tại ở dạng nói, nên người kể phải thường xuyên lặp lại những chi tiết quan trọng để khắc sâu vào tâm trí người nghe. Rừng xà nu thể hiện rất rõ âm hưởng trùng điệp, hùng tráng của sử thi. Tác giả lặp lại ít nhất 20 lần hình tượng cây xà nu dưới nhiều góc độ khác nhau: đường nét, màu sắc, mùi vị, công dụng… Mở đầu tác phẩm là rừng xà nu, bạt ngàn, kết thúc, cũng là rừng xà nu chạy đến chân trời. Điều đó cho thấy tác giả đặt niềm tin vào sự lớn mạnh, đông đảo của cách mạng. Mỗi chiến sĩ là một cây xà nu trong khu rừng bạt ngàn đó. Cụ Mết được ví như một cây xà nu lớn. Nếu như thơ xưa lấy cây thông (cùng họ với xà nu) tượng trưng cho người quân tử thì Nguyễn Trung Thành lấy cây xà nu tượng trưng cho sức sống bền bỉ quật khởi của dân làng Xô Man. Cây xà nu cũng như con người, biết thể hiện khí thế tiến công ngay từ lúc còn nhỏ: Có những “cây con mọc lên ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”. Cây cũng biết bảo vệ con người: “Rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng” và chấp nhận “bị thương” “thành từng cục máu lớn”. Tác giả đã sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ như tượng trưng, nhân hoá, so sánh... để tô điểm chất thơ cho khung cảnh và tạo không khí huyền thoại cho câu chuyện. Nếu tác giả sử thi Đam San tin rằng cây Smuk là cây thần thì các nhà sử thi cách mạng dùng yếu tố kì ảo chỉ là để thể hiện ý tưởng “Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây” (Tố Hữu).Có thể nói, Rừng xà nu là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, nó đã khái quát đưa hiện thực đau khổ nhưng vĩ đại của dân tộc. Nguyên Ngọc đã thành công trong việc chạm khắc tượng đài kì vĩ, chói lọi của các anh hùng cách mạng: Núp (chống thực dân Pháp), Tnú (chống đế quốc Mĩ)... Tác dụng to lớn của hai sáng tác này là cố vũ chiến đấu, lưu giữ lại âm hưởng hùng tráng một thời của dân tộc và góp phần giáo dục tình cảm yêu nước cho các thế hệ sau. Bởi vậy, có thể coi đây là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta. Phạm Ngọc Hiền | Báo Văn học & Tuổi trẻ, Số 6 (84), 2003, tr.8-11.

Tuyển tập 100 nhận định lí luận văn học về văn xuôi

1. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)2. “Đối với tôi văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn…” (Theo dòng, Thạch Lam)3. “Một nhà nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tuỷ.” (Sê-khốp)4. “Nhà văn phải là người thư kí trung thành của thời đại.” (Ban-dắc)5. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (CharlesDuBos)6. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)8. “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao niềm tin vào bản thân mình và làm nảy nở ở con người khát vọng hướng tới chân lí.” (M. Go-rơ-ki)9. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than.” (Trăng sáng, Nam Cao)10. “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.” (Nguyễn Văn Siêu)11. “Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên trái đất.” (Béc-tôn Brếch)12. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)13. “Sống đã rồi hãy viết, hãy hoà mình vào cuộc sống vĩ đại của nhân dân.” (Nam Cao)14. “Ở đâu có lao động thì ở đó có sáng tạo ra ngôn ngữ. Nhà văn không chỉ học tập ngôn ngữ của nhân dân mà còn là người phát triển ra ngôn ngữ sáng tạo, không nên ăn bám vào người khác. Giàu ngôn ngữ thì văn sẽ hay… Cũng cùng một vốn ngôn ngữ ấy nhưng sử dụng có sáng tạo thì văn sẽ có bề thế và kích thước. Có vốn mà không biết sử dụng chỉ như nhà giàu giữ của. Dùng chữ như đánh cờ tướng, chữ nào để chỗ nào phải đúng vị trí của nó. Văn phải linh hoạt. Văn không linh hoạt gọi là văn cứng đơ thấp khớp…” (Nguyễn Tuân)15. “Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.” (Nguyễn Khải)16. “Mỗi tác phẩm phải là một phát minh về hình thức và khám phá mới về nội dung.” (Lê-ô-nít Lê-ô-nốp)17. “Cái quan trọng trong tài năng văn học và tôi nghĩ rằng cũng có thể trong bất kì tài năng nào, là cái mà tôi muốn gọi là tiếng nói của riêng mình.” (Ivan Tuốc-ghê-nhép)18. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh ta khó trở thành nhà văn thực thụ.” (Sê-khốp)19. “Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình – nghĩa là trở thành nhà thơ.” (Raxun Gamzatốp)20. “Đối với con người, sự thực đôi khi nghiệt ngã, nhưng bao giờ cũng dũng cảm củng cố trong lòng người đọc niềm tin ở tương lai. Tôi mong muốn những tác phẩm của tôi sẽ làm cho con người tốt hơn, tâm hồn trong sạch hơn, thức tỉnh tình yêu đối với con người và khát vọng tích cực đấu tranh cho lí tưởng nhân đạo và tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)21. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)22. “Một tiểu thuyết thực sự hứng thú là tiểu thuyết không chỉ mua vui cho chúng ta, mà còn chủ yếu hơn là giúp đỡ chúng ta nhận thức cuộc sống, lí giải cuộc sống.” (Gioóc-giơ Đuy-a-men)23. “Văn học không quan tâm đến những câu trả lời do nhà văn đem lại, mà quan tâm đến những câu hỏi do nhà văn đặt ra, và những câu hỏi này, luôn luôn rộng hơn bất kì một câu trả lời cặn kẽ nào.” (Claudio Magris – Nhà văn Ý)24. “Một tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng bái ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ, hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại.” (L. Tôn-xtôi)25. “Thiên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yêu hơn.” (Thạch Lam)26. “Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức.” (Thạch Lam)27. “Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư.” (Lê Ngọc Trà)28. “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn.” (Nam Cao)29. “Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” (Đời thừa, Nam Cao)30. “Tôi khuyên các bạn nên đọc truyện cổ tích… thơ ngụ ngôn, các tuyển tập ca dao… Hãy đi sâu vào vẻ đẹp quyến rũ của ngôn ngữ bình dân, hãy đi sâu vào những câu hài hoà cân đối trong các bài ca, trong truyện cổ tích… Bạn sẽ thấy ở đó sự phong phú lạ thường của các hình tượng, sự giản dị của sức mạnh làm say đắm lòng người, vẻ đẹp tuyệt vời của những định nghĩa… Hãy đi sâu vào sáng tác của nhân dân, nó trong lành như nước nguồn ngọt ngào, tươi mát, róc rách từ khe núi chảy ra…” (M. Go-rơ-ki)31. “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình.” (Selly)32. “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống viết ra.” (An-đéc-xen)33.“Văn học, nghệ thuật là công cụ để hiểu biết, để khám phá, để sáng tạo thực tại xã hội.” (Phạm Văn Đồng)34. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người”. (Lê Trí Viễn)35. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.” (Đặng Thai Mai)36. “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm.” (Pautôpxki)37. “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học.” (Tố Hữu)38. “Nhà văn là người cho máu.” (Enxa Triole)39. “Văn học là nhân học.” (M. Go-rơ-ki)40. “Nghệ sĩ là người biết khai thác những ấn tượng riêng chủ quan của mình, tìm thấy những ấn tượng đó có giá trị khái quát và biết làm cho những ấn tượng đó có những hình thức riêng.” (M. Go-rơ-ki)41. “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo vì vậy nó đòi hỏi người viết sự sáng tạo phong cách mới lạ, thu hút người đọc.” (Phương Lựu)42. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn học)43. “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra.” (Hê-ghen)44. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật.” (Ai-ma-tốp)45. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phần bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)46. “Văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt, nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng, thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động… Thể hiện những vấn đề có ý nghĩa sâu sắc, bản chất của đời sống xã hội con người… Nhân vật trong tác phẩm của một thiên tài thực sự nhiều khi thật hơn cả con người ngoài đời, bởi sức sống lâu bền, bởi ý nghĩa điển hình của nó. Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian…” (Sách Lí luận văn học)47. “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là thực sự ở đời.” (Vũ Trọng Phụng)48. “Người sáng tác là nhà văn và người tạo nên số phận cho tác phẩm là độc giả.” (M. Go-rơ-ki)49. “Trước hết là các nghệ sĩ lớn, sau đó mới đến các nhà khoa học, họ xứng đáng hơn ai hết được hưởng sự kính trọng của con người.” (Einstein)50. “Những gì tôi viết ra là những gì thương yêu nhất của tôi, những ước mong nhức nhối của tôi.” (Nguyên Hồng)51. “Mỗi tác phẩm đều có ít nhiều nhà văn.” (Thạch Lam)52. “Nghệ thuật đó là sự mô phỏng tự nhiên.” (Pu-skin)53. “Đau đớn thay cho những kiếp sống muốn cất cánh bay cao nhưng lại bị cơm áo ghì sát đất…” (Sống mòn, Nam Cao)54. “Điều quan trọng hơn hết trong sự nghiệp của những nhà văn vĩ đại ấy lại là cuộc sống, trường đại học chân chính của thiên tài. Họ đã biết đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi nỗi đau đớn của con người trong thời đại, đã rung động tận đáy tâm hồn với những nỗi lo âu, bực bội, tủi hổ và những ước mong tha thiết nhất của loài người. Đó chính là cái hơi thở, cái sức sống của những tác phẩm vĩ đại.” (Đặng Thai Mai)55. “Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo. Vì vậy đòi hỏi người sáng tạo phải có phong cách nổi bật, tức là có cái gì rất riêng mới lạ trong phong cách của mình.” (Sách Văn học 12)56. “Đồng tiền lăn tròn trên lưng con người. Đồng tiền làm cho trái hoá phải, đen hoá trắng và người đàn bà goá phụ trở thành cô dâu mới.” (Giá trị của đồng tiền trong Truyện Kiều, Sếch-xpia)57. “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học.” (M. Go-rơ-ki)58. “Ngôn ngữ của tác phẩm phải gãy gọn, chính xác, từ ngữ phải được chọn lọc kĩ càng. Chính các tác giả cổ điển đã viết bằng một ngôn ngữ như vậy, đã kế tục nhau trau dồi nó từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.” (M. Go-rơ-ki)59. “Ngôn ngữ nhân dân là “tiếng nói nguyên liệu” còn ngôn ngữ văn học là “tiếng nói đã được bàn tay thợ nhào luyện”…” (M. Go-rơ-ki)60. “Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan, nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi đó.” (Biêlinxki)61. “Cuộc sống còn tuyệt vời biết bao trong thực tế và trên trang sách. Nhưng cuộc sống cũng bi thảm biết bao. Cái đẹp còn trộn lẫn niềm sầu buồn. Cái nên thơ còn lóng lánh giọt nước mắt ở đời.” (Trích trong Nhật kí của Nguyễn Văn Thạc)62. “Tôi hãy còn một trái tim, một dòng máu nóng để yêu thương, cảm thông và chia sẻ.” (Đô-xtôi-ép-xki)63. “Điều duy nhất có giá trị trong cuộc đời chính là những dấu ấn của tình yêu mà chúng ta đã để lại phía sau khi ra đi.” (Albert Schweitzer)64. “Nhà văn phải là người đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn của con người.” (Nguyễn Minh Châu)65. “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu)66. “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương.” (Bạch Cư Dị)67. “Những cuộc chiến qua đi, những trang lịch sử của từng dân tộc được sang trang, các chiến tuyến có thể được dựng lên hay san bằng. Nhưng những tác phẩm đi xuyên qua mọi thời đại, mọi nền văn hoá hoặc ngôn ngữ cuối cùng vẫn nằm ở tính nhân bản của nó. Có thể màu sắc, quốc kì, ngôn ngữ hay màu da chúng ta khác nhau. Nhưng máu chúng ta đều có màu đỏ, nhịp tim đều giống nhau. Văn học cuối cùng là viết về trái tim con người.” (Maxin Malien)68. “Tôi muốn tác phẩm của tôi giúp mọi người trở nên tốt, có tâm hồn thuần khiết, tôi muốn chúng góp phần gợi dậy tình yêu con người, đồng loại và ý muốn đấu tranh mãnh liệt cho những lí tưởng của chủ nghĩa nhân đạo và sự tiến bộ của loài người.” (Sô-lô-khốp)69. “Nói tới giá trị nhân đạo là nói tới thái độ của người nghệ sĩ dành cho con người mà hạt nhân căn bản là lòng yêu thương con con người.” (Từ điển văn học)70. “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu.” (L. Tôn-xtôi)71. “Con người đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người.” (Đặng Thai Mai)72. “Tư tưởng nhân đạo xuyên suốt văn học từ xưa đến nay. Khái niệm nhân đạo có những tiền thân của nó, trong lời nói thông thường đó là “tình thương, lòng thương người.” (Lê Trí Viễn)73. “Thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái đẹp và cái nhân đạo của lòng người.” (Sê-khốp)74. “Cốt lõi của lòng nhân đạo là lòng yêu thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người.” (Hoài Chân)75. “Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm.” (Hoài Thanh)76. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự níu giữ mãi mãi. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)77. “Nói nghệ thuật tức là nói đến sự cao cả của tâm hồn. Đẹp tức là một cái gì cao cả. Đã nói đẹp là nói cao cả. Có khi nhà văn miêu tả một cái nhìn rất xấu, một tội ác, một tên giết người nhưng cách nhìn, cách miêu tả phải cao cả.” (Nguyễn Đình Thi)78. “Văn học, đó là tư tưởng đi tìm cái đẹp trong ánh sáng.” (Charles DuBos)79. “Nhà văn phải biết khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, ý thức phản kháng cái ác; cái khát vọng khôi phục và bảo vệ những cái tốt đẹp.” (Ai-ma-tốp)80. “Một nhà văn thiên tài là người muốn cảm nhận mọi vẻ đẹp man mác của vũ trụ.” (Thạch Lam)81. “Nếu tác giả không có lối đi riêng thì người đó không bao giờ là nhà văn cả… Nếu anh không có giọng riêng, anh khó trở thành nhà văn thực thụ.” (Sê-khốp)82. “Văn học làm cho con người thêm phong phú, tạo khả năng cho con người lớn lên, hiểu được con người nhiều hơn.” (M. L. Kalinine)83. “Cái bóng của độc giả đang cúi xuống sau lưng nhà văn khi nhà văn ngồi dưới tờ giấy trắng. Nó có mặt ngay cả khi nhà văn không thừa nhận sự có mặt đó. Chính độc giả đã ghi lên tờ giấy trắng cái dấu hiệu vô hình không thể tẩy xoá được của mình.” (Sách Lí luận văn học)84. “Tình huống là một lát cắt của sự sống, là một sự kiện diễn ra có phẩn bất ngờ nhưng cái quan trọng là sẽ chi phối nhiều điều trong cuộc sống con người.” (Nguyễn Minh Châu)85. “Nếu như Nguyễn Công Hoan đời là mảnh ghép của những nghịch cảnh, với Thạch Lam đời là miếng vải có lỗ thủng, những vết ố, nhưng vẫn nguyên vẹn, thì với Nam Cao, cuộc đời là tấm áo cũ bị xé rách tả tơi từ cái làng Vũ Đại đến mỗi gia đình, mỗi số phận.” (Nguyễn Tuân)86. “Văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật.” (Nguyễn Tuân)87. “Như một hạt giống vô hình, tư tưởng gieo vào tâm hồn nghệ sĩ và từ mảnh đời màu mở ấy nó triển khai thành một hình thức xác định, thành các hình tượng nghệ thuật đầy vẻ đẹp và sức sống.” (Biêlinxki)88. “Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cầm giữ cái tình yêu ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ, bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và đứng vững được trước cuộc sống.” (Nguyễn Minh Châu)89. “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của một chặng đời sống con người ta, trên con đường dài dằng dặc đi đến cõi hoàn thiện.” (Nguyễn Minh Châu)90. “Một tác phẩm nghệ thuật chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng.” (Con tàu trắng, Ai-ma-tốp)91. “Văn học nằm ngoài các định luật của sự băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” (Sê-đrin, Nga)92. “Văn học là tấm gương lớn di chuyển dọc theo đường đời.” (Xtăng-đan)93. “Một chữ tình để duy trì thế giới/ Một chữ tài để tô điểm càn khôn.” (Trương Trào, Trung Quốc)94. “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm.” (Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp)95. “Văn học là phương thức tồn tại của con người, giữ cho con người mãi mãi là con người, không sa xuống thành con vật, hay thành ông Thánh vô duyên, vô bổ. Văn học là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của văn học là tính nhân đạo.” (Nguyên Ngọc)96. “Tác phẩm văn học sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả… nếu nó khôg là tiếng thét khổ đau hay là lời ca tụng hân hoan; nếu nó không đặt ra những câu hỏi và không trả lời những câu hỏi ấy.” (Biêlinxki)97. “Mọi lí thuyết chỉ là màu xám, chỉ cây đời mãi mãi xanh tươi.” (Gớt)98. “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất trên thế giới.” (Pau-tốp-xki)99. “Chỉ có tác phẩm nghệ thuật nào truyền đạt cho mọi người những tình cảm mới mà họ chưa từng thể nghiệm thì mới là tác phẩm nghệ thuật đích thực.” (Lép-Tôn-xtôi)100. “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy.” (Hồ Chí Minh) Nguồn: Tổng hợp. #hocvancominhhuong #liluanvanhoc #vanxuoi #suutam

Khát vọng tự do hạnh phúc và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong "Vợ chồng A Phủ"

Con người sinh ra vốn đã được tạo hóa ban tặng cho quyền được sống, được làm người và quyền được mưu cầu hạnh phúc. Ý thức được điều đó, khao khát được hòa mình vào cuộc sống, con người đã vượt qua mọi trở ngại khó khăn, thử thách để hướng tới một điều thật ý nghĩa: sự sống. Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài cũng đã phần nào biểu hiện điều đó. Bằng sức sống mãnh liệt, lòng khát khao được sống, Mị đã can đảm và tìm thấy sự sống cho chính mình.Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ làm việc và có tài thổi sáo giỏi. Chính vì thế mà cô gái ấy là niềm khao khát, ước mơ của bao nhiêu chàng trai: “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Có thể nói, cuộc sống của Mị đang trên đà đơm hoa kết trái, một cuộc sống mà ở tuổi của cô ai cũng phải ao ước. Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời Mị đã dần chuyển sang hướng khác khi cô trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Và người con gái đẹp ấy lại một lần nữa tỏ rõ tấm lòng hiếu thảo của một người con khi nghe lời cha, chấp nhận về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý.Tiếng là con dâu nhà thống lý nhưng ai cũng thấy được cô con dâu chẳng khác gì kẻ tôi đòi, phải làm việc quần quật suốt ngày đêm. Hình ảnh Mị thật tội nghiệp như một “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa”, như “con trâu con ngựa nuôi trong chuồng, chỉ biết ăn cỏ, chỉ biết làm việc mà thôi”. Đối lập hoàn toàn với cha con nhà thống lý ăn chơi trác táng là hình ảnh cô Mị ngồi cạnh tàu ngựa, trước tảng đá, dù chẻ củi hay gánh nước từ dưới suối lên, lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi. Sống trong nhà thống lý Pá Tra không phải là cô Mị trẻ trung, yêu đời như ngày xưa nữa. Chính thần quyền và cường quyền nhà thống lý đã giết chết tuổi thanh xuân, bóp nghẹt cuộc sống của Mị cả về thể xác lẫn tâm hồn. Lúc này, Mị không khác gì một cái xác không hồn vật vờ, làm việc như nữ nô, thành một kẻ hầu người hạ cho chồng mà có thể bị chồng đánh đập tùy hứng bất cứ lúc nào. Cuộc sống của Mị khép chặt trong căn buồng kín bưng, trông ra ngoài chỉ duy nhất có “một chiếc cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”.Ý thức về cuộc sống của Mị dường như đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Điều này đã cho thấy con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống, con con người thực của cô thì dường như đã chết. Mị không bày tỏ, không kêu than cũng không phản kháng gì, chỉ lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa và “chờ ngày chết rũ xương ở đây thôi”.Thế nhưng, “ngoài đầu núi lấp ló, đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bồi hồi”. Ta tưởng chừng như cô Mị đã trở nên vô cảm vô hồn, chỉ biết chấp nhận kiếp sống đọa đày nhưng không phải. Chính tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân – biểu tượng của tình yêu và khát vọng sống – đã gợi dậy những sâu thẳm trong lòng Mị bấy lâu. “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát”. Cách uống rượu ấy như báo trước một cuộc nổi loạn mà chính bản thân Mị cũng chưa ý thức rõ: “Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, còn Mị thì đang sống về ngày trước”. Chính những ngày tháng tuổi trẻ nghèo khó nhưng tự do, vui vẻ và hạnh phúc đã khiến cho lòng ham sống của Mị trỗi dậy: “Mị thấy phơi phới trở lại”. “Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo” và “Mị muốn đi chơi”. Từ chuyển biến trong suy nghĩ, Mị đã có một hành động thật ý nghĩa” “Mị đến góc nhà, lấy ống mở, xắn một miếng bỏ vào đền cho thêm sáng” và “với tay lấy cái váy hoa vắt ở vách” để chuẩn bị đi chơi. Hành động này có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn, soi rọi cuộc sống tối tăm triền miên của quá khứ, và giờ đây Mị muốn bước ra khỏi cuộc sống tối tăm ấy, đến với tiếng sáo và những âm thanh rộn rã ngoài kia để được sống là chính mình.Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô có ý định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sao nữa”. Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Kết cực ấy nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.Ngọn lửa khao khát sống trong cô Mị thực sự bùng cháy khi tự tay cô cởi trói cho A Phủ. Chứng kiến cảnh A Phủ bị đánh đập dã man, và hình ảnh “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã khiến cho Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cái cột thế kia, cũng nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không cách nào lau đi được. Chính từ đó đã làm trỗi dậy trong Mị tình thương những người cùng cảnh ngộ. Mị đã thấy được cái bất công phi lý, sự tàn ác của cha con nhà thống lý và không muốn thấy thêm một cái chết oan ức, cho nên cô đã cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô đã sẵn sàng chịu trói và chịu chết thay cho A Phủ vì cô nghĩ rằng, chỉ có chết thì cô mới có thể được giải thoát khỏi kiếp sống tù, đớn đau nhục nhã này. Nhưng không phải. Khi thấy a Phủ chạy đi rồi, chạy đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tỉnh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống cho nên “Mị vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.Qua việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài cũng đã phần nào tố cáo chế độ thống trị của bọn chúa đất, địa chủ phong kiến, ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những người nông dân miền núi hiền lành, chất phác. Họ biết yêu cái đẹp, trọng lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình.Sức sống của nhân vật Mị được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình, độc đáo. Từ một con người dường như đã bị mất hết sức sống, nhưng với một nghị lực phi thường, một lòng ham sống mãnh liệt, Mị đã tìm thấy cuộc sống cho bản thân mình và dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua. Thật vậy, Nguyễn Khải cũng đã từng triết lý: “Ở đời này không có con đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để vượt qua những ranh giới ấy”. Con đường vượt qua những ranh giới của nhân vật Mị phần nào đã chứng minh cho chân lý ấy.

Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm đông giải cứu A Phủ

️Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. ️Tô Hoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời. ️Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm. ️Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử. ️Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. ️Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. ️Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. ️Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa... ️Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. ️Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. ️Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: Cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ đó. ️Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. ️Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. ️Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". ️Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. ️Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái nhà này”. Lý trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn ác hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. ️Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. ️Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. ️Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? ️Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… ️Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. ️Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. ️Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. ️Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. ️Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến… ️Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. ️Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. ️Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống. ️Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàu tính tạo hình đã hội tụ và phát sáng trong truyện ngắn này. ️Tác phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài. Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đời thừa". Nguyễn Trung Ngân, bài văn đạt điểm 10 của thí sinh dự thi vào Đại học Cần Thơ năm 2008

Vẻ đẹp mùa xuân Tây Bắc và sức sống tiềm tàng của Mị trong "Vợ chồng A Phủ"

Am hiểu sâu sắc phong tục, tập quán; thấu hiểu tâm hồn và tính cách đồng bào vùng cao Tây Bắc; nhà văn Tô Hoài đã có những trang văn đặc sắc viết về phong vị dân tộc với một văn phong giàu chất tạo hình và thấm đẫm chất thơ. Vẻ đẹp của mùa xuân Tây Bắc là một trong những trang văn hay nhất, gợi cảm nhất mà Tô Hoài đã thể hiện trong tác phẩm. Đặc biệt, thông qua không gian lễ hội mùa xuân, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị được khơi dậy, bừng thức như hòn than dưới lớp tro tàn, vẫn còn nóng hổi dù trải qua bao nhiêu lớp lớp dập vùi. Nhờ đó, vẻ đẹp của mùa xuân Tây Bắc vừa làm nền cho một tâm hồn bừng thức đi tìm lẽ sống ở đời, một tính cách sống động với nhiều cảm xúc đan xen; vừa trở thành một nhân vật có tính phụ họa cho khát vọng nhân văn, niềm yêu đời thiết tha, hướng đến tự do và hạnh phúc của Mị. Có lẽ kế thừa quá trình sáng tạo của nhiều nhà văn trên thế giới, nhất là các tác giả Á Đông thường mượn thiên nhiên làm nền cho cuộc sống con người, trước khi để cho hình tượng nhân vật Mị với một sức sống tiềm tàng mãnh liệt bừng thức trở dậy, thoát khỏi kiếp sống tù đày, dám "vượt ngục" để là chính mình, Tô Hoài đã dựng lên cả một bức tranh mùa xuân Tây Bắc thật đẹp và thơ mộng. Không thêu dệt bằng bút pháp lãng mạn thái quá, chính hiện thực sống động và sự am hiểu tường tận cuộc sống của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc đã giúp cho nhà văn có cái nhìn sắc sảo về thời gian và không gian của ngày Tết ở Hồng Ngài, nơi Mị trở thành con dâu gạt nợ của gia đình thống lí Pá Tra. Không có cảnh hoa đào khoe sắc, lộc non mơn mởn gọi mùa, đồng bào dân tộc Mèo đón xuân khi thời tiết vẫn còn rét mướt và lạnh lẽo. Tất cả đều thuận theo tự nhiên, khi mùa vụ đã xong, gặt hái đã hết, đấy là lúc bản làng bắt đầu vui xuân đón Tết. Vì vậy, bức tranh thiên nhiên mùa xuân năm ấy ở Hồng Ngài được nhà văn miêu tả có cảm tưởng như cái rét lạnh của buổi đông về: "Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội." Có điều, ăn Tết như thế là đúng dịp "trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho"; nghĩa là đồng bào miền Tây Bắc ăn Tết không nhất định theo ngày tháng cụ thể của lịch, "cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày tháng nào". Bù lại cho cái rét lạnh của không gian ngày Tết, bức tranh mùa xuân miền Tây Bắc vẫn trở nên sống động khác thường nhờ vào sinh hoạt của con người. Nhà văn Tô Hoài, bằng sự quan sát tinh tế, cái nhìn tràn đầy yêu mến với cảnh vật và con người nơi đây mới có những trang văn khá thi vị về những nét sinh hoạt độc đáo. Hình ảnh "những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ" là một tín hiệu đầu tiên về cảnh sắc buổi xuân về. Thay thế cho muôn ngàn cánh hoa đào, hoa mơ rực rỡ, những chiếc váy hoa của người con gái miền Tây Bắc đã mở ra một không gian thoáng đãng, một vẻ đẹp nên thơ đầy màu sắc, nhờ đó gợi được không khí náo nức và tươi tắn của mùa xuân. Hoạt động của con người dường như đánh thức mùa xuân dậy sớm để chiều theo lòng mình, dù thiên nhiên vẫn chưa sẵn sàng đón nhận. Ngòi bút tác giả quay thật chậm khung cảnh chuẩn bị đón Tết của đồng bào cũng đủ gợi ra cái không khí vui tươi phấn khởi: "Ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng làm cái sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ con ra sân chơi ấy tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi khèn và nhảy." Trẻ con vui đùa với trò chơi quay, cười ầm vang khắp sân nhà thật náo động. Con trai, con gái thì "chơi đánh pao, đanh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi". Đặc biệt, âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng bắt đầu trỗi dậy báo hiệu một mùa Tết đến. Dưới ngòi bút Tô Hoài, bức tranh mùa xuân miền Tây Bắc hiện lên đậm nét không biểu lộ nhiều qua cảnh sắc thiên nhiên mà tập trung vào sinh hoạt của con người. Nhìn tổng thể, từ sắc màu rực rỡ đến âm thanh vang động núi rừng, tất cả vẫn xuất phát chủ yếu từ hoạt động của con người. Hương vị của mùa xuân Tây Bắc thấm đẫm một không khí tươi vui hiếm có, bởi do con người kiến tạo mà nên. Những câu chữ viết về mùa xuân Tây Bắc giàu chất thơ nhất có lẽ là khi tác giả miêu tả những đêm tình mùa xuân của nam thanh nữ tú. Tiếng sáo thổi dìu dặt gọi bạn đi chơi với âm thanh ngân vang, khi gần khi xa làm cho lòng người càng thêm bổi hổi. Tiếng sáo đó được cất lên thành lời khơi gợi biết bao nhiêu say đắm, mộng mơ: "Mày có con trai con gái rồi/ Mày đi làm nương/ Ta không có con trai con gái/ Ta đi tìm ngươi yêu". Những đêm tình nồng nàn, mê đắm ấy chính là chất liệu làm nên những trang văn đầy chất thơ của Vợ chồng A Phủ, khiến cho ngòi bút Tô Hoài có được sức hấp dẫn lâu bền trong lòng người đọc. Ngoài ra, bằng sự am tường sâu sắc của một nhà văn giỏi quan sát, cảnh vật và con người với những phong tục, tập quán của đồng bào Tây Bắc được hiện lên trong bức tranh mùa xuân thật đa dạng, từ khung cảnh cúng ma đến bữa rượu bên bếp lửa hồng ấm áp: "Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma. Xung quanh, chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay bữa rượu bên bếp lửa." Quả vậy, đọc Vợ chồng A Phủ, nhất là trích đoạn kể lại cuộc đời Mị và A Phủ khi ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài đã mang đến cho bạn đọc một thế giới Tây Bắc lung linh, kỳ diệu, nhất là bức tranh mùa xuân đầy mê đắm, nên thơ, ẩn giấu trong ấy là hình tượng người thiếu phụ xinh đẹp, tài hoa u sầu cho kiếp đời trâu ngựa của mình. Có lẽ tiếp nối triết lí "tài mệnh tương đố" trong văn chương trung đại, Tô Hoài đã bổ sung thêm một hình mẫu về sự tài hoa bạc phận của văn chương hiện đại chăng? Những trang văn giàu chất hiện thực và lãng mạn ấy xoay quanh thân phận của nhân vật Mị trước và trong đêm mùa xuân về là một thử thách lớn đối với bút lực Tô Hoài. Nhưng không, tác giả của Dế Mèn phiêu lưu ký đã thành công một cách ngoạn mục, giúp người đọc thấy được sức sống tiềm tàng mãnh liệt của một kiếp đời tưởng chừng như chết đi trong cái chốn ngục tù của bọn chúa đất phong kiến miền núi ấy lại được hồi sinh, mang đầy vẻ xuân tình rạo rực. Ngay từ tráng sách đầu tiên của tác phẩm Vợ chồng A Phủ, tác giả miêu tả hình ảnh một cô Mị lầm lũi, cô đơn, làm lụng tất bật suốt ngày đêm nơi xó bếp của nhà thống lí Pá Tra. Đoạn văn từ đầu truyện ấy đã bắt đầu mang âm hưởng của một giọng kể u buồn mênh mang về thân phận của người phụ nữ bé mọn: "Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Một đoạn văn miêu tả ngắn nhưng đủ bao quát cho người đọc nhận ra một số phận hẩm hiu, cay đắng. Ban đầu, người đọc bàng hoàng không biết tại sao trong nhà thống lí Pá Tra giàu có mà cô con gái kia lại mang nét mặt khổ sầu đến vậy? Hóa ra không phải, cô ấy là con dâu gạt nợ của nhà Pá Tra mà thôi. Chỉ vì món nợ truyền kiếp của mẹ cha để lại, Mị đành cam chịu cảnh bán mình để cứu nạn cho cha. Đau đớn và tủi nhục, người phụ nữ tài hoa nhan sắc kia có lúc uất ức quá chịu không nổi nên lén về nhà gặp cha lần cuối để rồi tự tử bằng nắm lá ngón giấu sẵn trong người. Nhưng vì thương cha sẽ chịu nhiều cơ cực, món nợ kia lại phải tiếp tục đeo vào cổ nên Mị không đành lòng chết được, tiếp tục quay về chịu kiếp ngựa trâu. Kiếp ngựa trâu còn làm việc có lúc, "đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi vào việc làm suốt cả ngày". Cơ cực về thân xác đã đành, tinh thần Mị còn đau đớn hơn bội phần xác thân gánh chịu. Nhà văn dường như cảm thông sâu sắc, đôi lúc nhập vào tâm lí nhân vật mà giãi bày cảnh ngộ. Cô Mị ngày nào xinh đẹp nhường kia, thổi sáo rất hay, chỉ cần đưa một chiếc lá trên môi, Mị đã cất tiếng véo von chẳng thua kém gì thổi sáo. Tài sắc là vậy, biết bao chàng trai mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Thế mà giờ đây, kể từ ngày về làm con dâu gạt nợ, đời Mị coi như đã chết đi, chỉ là một cái xác không hồn. Chi tiết cái buồng Mị nằm chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bé như bàn tay, ngồi trong nhìn ra chỉ thấy một màu trăng trắng nhờ nhờ không biết là mưa hay nắng đã ẩn dụ cho một cuộc đời ngục tù tối tăm, u uẩn. Tuổi xuân đã chết, tình yêu không còn, nỗi đau chất ngất, bây giờ Mị trơ ra như cái xác không hồn. Trước đây, khi cha Mị còn sống, Mị còn ý thức đến cái khổ, cái đau của thân phận một con dâu mà như tôi tớ trong nhà nên muốn chết; giờ sống lâu trong cái khổ, riết rồi quen, Mị cũng không buồn chết nữa. Chao ôi! Còn gì đau đớn hơn khi mà con người không còn đủ ý thức về sự sống của mình; còn gì buồn thảm hơn khi mà cuộc đời cứ mỏi mòn chìm trong khổ đau tuyệt vọng mà không biết không hay? Mị cứ vật vờ nổi trôi như cái xác không hồn, như định mệnh đã an bài về một kiếp đời vô vọng. Thế là cuộc đời Mị đã khép lại rồi chăng? Người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa kia sẽ mãi mãi sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa cho đến khi bỏ xác ở nhà Pá Tra sao? Không! Nhất định là không thể như thế được! Với cảm quan của một nhà văn cách mạng, một tấm lòng nhân đạo hướng đến con người, Tô Hoài vẫn nhận ra dưới lớp tro tàn tưởng chừng im ắng ấy là hòn than vẫn đỏ hết mình, chỉ cần có cơ hội là nó bùng cháy trở lại, thắp sáng lên niềm tin yêu cho cuộc đời mới bắt đầu. Chính bức tranh mùa xuân Tây Bắc nồng nàn và mê đắm ấy đã cất lên tiếng gọi tri âm, đồng cảm mà níu Mị trở về với những đêm tình mùa xuân thần tiên ngày trước, thuở Mị còn xuân sắc, tài hoa, có biết bao chàng trai ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Vậy là mùa xuân Tây Bắc mà Tô Hoài cố công sắp đặt, bày dựng đã có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc, nó như một nhân vật phù trợ, một móng nền vững chắc để chắp cánh cho ước mơ và khát vọng bay lên. Trong đêm mùa xuân về ấy, cái tâm hồn tưởng chừng tê dại, vô cảm kia ban đầu cũng chỉ biết nhập cuộc bằng những hủ rượu cúng ma ở nhà thống lí Pá Tra: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hủ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước". Đúng là duyên cớ, cái mùa xuân năm này và những mùa xuân năm trước - những mùa xuân tuổi trẻ đã rất xa với đời Mị - sao lại kết nối và gần gũi với nhau đến thế? Tất cả cứ tan loãng vào nhau, đan cài, quấn quýt. Tiếng sáo gọi bạn của mùa xuân này lại làm lòng Mị cháy bỏng nhớ về ngày trước. Bắt đầu là hoài niệm, một hoài niệm ngậm buồn nhưng đã nuôi biết bao mơ ước thần tiên. Khi người phụ nữ còn ý thức được mình, còn biết nhớ về quá vãng đẹp tươi, nghĩa là người ta chưa chết hẳn về mặt tâm hồn. Thì đây, ngay trong đêm mùa xuân, bên bữa cơm Tết này, khi mà những giọt rượu cứ ngấm dần vào cơ thể, lòng Mị lại bâng khuâng nhớ về ngày trước: "Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị." Tác nhân trực tiếp là những giọt rượu xuân chảy tràn trong huyết quản, nhưng cái quan trọng nhất vẫn là sức sống tiềm tàng mãnh liệt luôn ầm ỉ cháy bỏng trong tâm hồn người đàn bà tưởng chừng như chết kia vẫn không thôi khao khát về quyền sống chính đáng của mình. Nó là máu thịt, là tình yêu, là bản năng nội tại lâu nay chìm khuất, nay mùa xuân về bất chợt bừng thức trở lại, xao động, bồi hồi. Những kỷ niệm đan xen cùng thực tại, tiếng sáo của quá khứ vọng ngân hòa quyện với tiếng sáo gọi bạn tình đâu đó bên ngoài cứ khiến Mị thắt thỏm không yên. Cả một trời thực và trời mộng tan hòa vào nhau, đắm say, luyến láy. Có lẽ viết đến đây, nhà văn Tô Hoài chưa hẳn đã làm chủ được ngòi bút của mình, tất cả ngôn từ cứ mặc sức tung tẩy, chắp cánh cho ước mơ tình yêu lãng mạn của Mị được thoát tục, bay bổng. Cuộc "vượt ngục" lần thứ nhất trong đêm tình mùa xuân của nhân vật Mị đâu chỉ dừng lại ở suy tư hoài niệm, nó còn là sự tự ý thức về chính mình, về tuổi trẻ và nhan sắc, về thực tại đắng cay và quá khứ êm đềm: "Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau". Có thể nói đây là bước ngoặt quan trọng, là tín hiệu đầu tiên cho một cuộc vượt thoát chính mình, phủ nhận thân phận tôi đòi của người phụ nữ miền núi trước cách mạng. Trong khi đó, hiện thực mùa xuân tươi đẹp vẫn đang lan tỏa, nhất là tiếng sáo dặt dìu, bồng bềnh như chính âm vọng huyền hoặc của mùa xuân Tây Bắc. Từ tiếng sáo "ngoài đầu núi" đến tiếng sáo "gọi bạn đầu làng". Mị cũng thế, từ nỗi hoài niệm trong niềm cô đơn, tiếc nuối, đến sự tự ý thức về quyền sống "được đi chơi" như bao người phụ nữ khác, để rồi cuối cùng, như một quy luật tất yếu, Mị bước vào buồng "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Bao nhiêu là hành động, cứ cuống quýt, vội vàng, tự chủ và quyết đoán bằng một ý thức tràn đầy khao khát. Nhưng rồi tất cả bỗng bị chặt đứt khi A Sử bước vào, bắt Mị trói đứng vào cột nhà với một thúng dây đay. Nhà văn đã để cho nhân vật Mị bình thản, không phản ứng qua hành động bên ngoài, nhưng người đọc vẫn nhận ra ngọn lửa cháy bùng lên mãnh liệt trong tâm hồn người phụ nữ khốn khổ kia. Đó là ngọn lửa cháy sáng của niềm tin, của tình yêu và khát vọng bấy lâu bị vùi dập nay rực sáng lên hơn bao giờ hết. Sợi dây đay trói kia của A Sử làm sao ngăn được bước chân tâm hồn đang phiêu du của Mị! Mị đâu sống trong thực tại, Mị đang sống trong êm đềm của quá khứ xa xưa, tai Mị vẫn nghe tiếng sáo của bạn tình đứt ruột, rập rờn, da diết. Biết bao là nỗi niềm, day dứt, nhớ thương. Mị cứ điềm nhiên bước đi nhưng chân tay đau không cựa được. Hóa ra A Sử đã trói chặt Mị đến thế này sao? Mị như nửa tỉnh, nửa mê, chập chờn mộng tưởng. Những câu văn thật ngắn, đứt đoạn mà say đắm, nồng nàn của nhà văn Tô Hoài một lần nữa đã đạt đến nghệ thuật thần diệu khi miêu tả sức sống mãnh liệt của Mị trong đêm mùa xuân nồng nàn, mê đắm, nhất là khi bị A Sử trói Mị một mình đứng lặng giữa bóng tối miên man: "Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rựợu tỏa. Tiếng sáo." Sau đêm tình mùa xuân dẫn dụ tâm hồn Mị được sống là chính mình, trong sáng và yêu đời tha thiết, để rồi sáng mai Mị nhận ra sự thật phũ phàng, cay nghiệt lại ùa vào thân phận đời mình, tiếp tục làm con trâu, con ngựa cho nhà thống lí Pá Tra oan nghiệt. Tuy vậy, chính lần bừng thức thứ nhất này, vẻ đẹp tâm hồn Mị được người đọc đón nhận bằng một tình yêu mới mẻ, đầy sự đồng cảm, sẻ chia. Đó cũng chính là tiền đề để Mị làm nên cuộc "cách mạng" cởi trói cho A Phủ sau này, giải thoát chính mình khỏi bóng đêm của kiếp sống tù đày, tủi nhục. Bức tranh mùa xuân Tây Bắc trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ hay đó là khung cảnh mùa xuân thanh tân mà tác giả dự báo cho cuộc đời Mị sau này? Có lẽ hơn ai hết, nhà văn Tô Hoài đã rất dụng ý khi tô điểm vẻ đẹp của tình xuân nồng nàn và mê đắm bằng ngòi bút tài hoa của mình để làm nền cho sự bừng thức tâm hồn nhân vật Mị. Mùa xuân cuộc đời và mùa xuân của ước mơ thánh thiện, ngập tràn hạnh phúc sẽ mãi đồng hành cùng cuộc đời nhân vật sau này khi đến Phiềng Sa, được đứng trong hàng ngũ của cán bộ A Châu, đánh đuổi giặc Pháp và bọn chúa đất. Nhờ đó, vẻ đẹp của Vợ chống A Phủ không chỉ thể hiện ở tính nội dung tư tưởng mà lắng sâu hơn là những trang văn giàu chất thơ, nhất là khi viết về bức tranh xuân miền Tây Bắc xa xôi của Tổ quốc. ️Lê Thành Văn | Tạp chí Văn

Phân tích khát vọng giải thoát của nhân vật Trương Ba

Khi gặp lại Đế Thích, Trương Ba thể hiện thái độ kiên quyết chối từ, không chấp nhận cái cảnh phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” nữa và muốn được là mình một cách toàn vẹn “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Qua lời thoại này của nhân vật Trương Ba, LQV muốn gửi gắm vào đó thông điệp: Con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hoà. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục tội lỗi. Và ngược lại, khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng linh hồn. Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên chấp nhận vì “thế giới vốn không toàn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng Trương Ba không chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì ông chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Lòng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà có khi đó còn là sự vô tâm, tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích đã một lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi mà cho hồn Trương Ba sống trong xác anh hàng thịt. Bi kịch lại nối tiếp bi kịch khi Đế Thích định tiếp tục sửa cái sai của mình và Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn(theo suy nghĩ của Đế Thích) là cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ông là còn khổ hơn là cái chết. “Đâu phải cái sai nào cũng sửa được” nên Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị. Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”, thậm chí Đế Thích còn cho Trương Ba hiểu “Ngọc Hoàng còn không được sống là chính mình”, thì Trương Ba có gì phải băn khoăn về cuộc sống hiện tại. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định. Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự nhiên cũng là sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc lộ ở đây. Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gởi gắm những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết, về cả những triết lí nhân sinh. Hai lời thoại của hồn trong cảnh này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Quyết định dứt khoát xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ không nhập hồn vào thân thể ai nữa của Trương Ba là kết quả của một quá trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ "bao nhiêu sự rắc rối”, vô lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống. Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Không chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ. Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thô thiển. Nói như Chế Lan Viên trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”. Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích đáng đến sinh hoạt vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn. Thực chất đây là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

Tuyển tập dẫn chứng Nghị luận xã hội truyền cảm hứng

1. Jack Ma: Hồi đi học Jack Ma học kém toán nhưng lại thích tiếng Anh. Khi Trung Quốc bước vào giai đoạn mở cửa, Hàng Châu trở thành điểm du lịch quốc tế. Trong suốt gần 10 năm, ngày nào Jack Ma cũng dậy sớm đạp xe tới khách sạn Hàng Châu làm hướng dẫn viên du lịch miễn phí cho khách nước ngoài để rèn luyện tiếng Anh.Ra trường năm 1988, Jack Ma nộp đơn xin việc tại hàng chục công ty nhưng đều bị từ chối. Trở về Trung Quốc, Jack Ma mở trang web China Pages, là nơi tập hợp các doanh nghiệp Trung Quốc ở nhiều lĩnh vực khác nhau muốn tìm kiếm khách hàng nước ngoài. Tuy nhiên sau đó China Pages thất bại. Jack Ma còn thua trắng với một dự án thương mại điện tử khác nữa. Nhưng thất bại chưa bao giờ làm Jack Ma nản chí. Ông từng khẳng định: “Việc tôi thất bại không quan trọng, ít nhất tôi truyền tải được ý tưởng của mình cho những người khác và nếu tôi không thành công thì người khác sẽ thành công”. Ông cũng tỏ rõ ý chí của mình: “Ngày hôm nay rất tàn nhẫn, ngày mai còn tàn nhẫn hơn, nhưng ngày mốt là đẹp tuyệt vời”. Và cái “ngày mốt” đó đến 4 năm sau, khi China Pages sụp, Jack Mamời 17 người bạn của ông tới nhà, bàn bạc trao đổi về tiềm năng phát triển của thương mại điện tử. Ông thuyết phục họ bỏ vốn cùng ông thành lập một trang web thương mại điện tử thứ ba lấy tên là Alibaba.Jack Ma trở thành một cái tên cả thế giới biết tới, nhưng những người bạn của ông cho biết ông vẫn không thay đổi. Jack Ma vẫn vậy, với đam mê khiêm tốn. Đó là một tấm gương đáng quý và con đường “tay trắng làm nên” của đại tỷ phú Jack Ma trở thành câu chuyện truyền cảm hứng cho đông đảo người dân Trung Quốc. 2. Michael Jordan:Michael Jordan từng bị loại khỏi đội bóng rổ của trường vì cậu không đủ chiều cao. Nhưng suốt một năm, sau lần biết mình bị loại, bất kể mưa hay nắng, cậu vẫn chăm chỉ tập từ 4 đến 6 tiếng mỗi ngày trong một công viên gần nhà. Có lúc cậu tập cả dưới ánh trăng, từng bước từng bước hoàn thiện các động tác và kỹ thuật của mình. Kết quả thật ngoài sức tưởng tượng. Ngay năm sau, cậu được chọn vào đội tuyển của trường và cái tên Michael Jordan sau này trở thành huyền thoại trong làng bóng rổ thế giới. Sở dĩ có thể thi đấu và giành chiến thắng trong nhiều hoàn cảnh bất khả thi như thế, đó là vì Michael Jordan luôn tin rằng thể xác có giới hạn nhưng ý chí và nội lực là vô biên. Anh luôn muốn chứng minh cho mọi người thấy không gì là không thể. 3. Tiger Woods:Từ lúc 8 tuổi, Tiger Woods đã đặt ra mục tiêu phá hết mọi kỷ lục của môn đánh gôn và trở thành tay gon chuyên nghiệp nhất thế giới. Anh đã hoàn thành mục tiêu này vào 13 năm sau. Đó là kết quả của việc anh đã nhìn thấy rõ mục tiêu của mình. Anh đã không ngừng nỗ lực tập luyện và thi đấu trong suốt 13 năm trời để đạt được nó. 4. Steve Jobs:Steve Jobs, người có công rất lớn trong việc sáng tạo và phát triển ngành công nghệ điện tử. Ông sinh ra và được nuôi nấng bởi một cặp cha mẹ làm luật sư, từng bỏ Đại học vì hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nhưng ông đã khiến hàng ngàn người trên thế giới phải bỏ ra một số tiền không nhỏ vì các sản phẩm mang thương hiệu Apple.Các sản phẩm của Apple luôn đi ngược lại với thị hiếu đám đông, không phụ thuộc vào những trào lưu hiện hành của người sử dụng. Bằng cách riêng của mình, Apple đã chinh phục người tiêu dùng bằng những sản phẩm sáng tạo cao cấp, đạt đến sự hoàn thiện. Không lâu sau đó, những sản phẩm của Apple thậm chí đã định hướng thị hiếu đám đông đi theo những tiêu chuẩn của mình. Đó là điều mà không phải hãng sản xuất nào cũng làm được. Dù đã qua đời bởi căn bệnh ung thư, Steve Jobs vẫn luôn được nhắc đến như một huyền thoại với những người yêu công nghệ. 5. Mohandar Gandhi:Bốn lần bị bắt, 31 tháng bị cầm tù nhưng Mohandar Gandhi (1869 – 1948) vẫn kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của người Ấn. Trước khi chết do bị ám sát, ông nói: “Dù chỉ còn một giây tồn tại nhưng tôi phải thực hiện cho bằng được nó, bởi đó là khát vọng của dân tộc”. Ông được nhân dân Ấn tôn sùng như một vị thánh, họ gọi ông là Mahatma – Đấng vĩ đại. Tình yêu nước, tình yêu con người nơi ông mạnh hơn cái chết. 6. Martin Luther King (1929-1968) - nhà hoạt động nhân quyền vĩ đại của nước Mỹ.Martin Luther King, Jr. (1929 – 1968) là Mục sư Baptist, nhà hoạt động dân quyền người Mỹ gốc Phi, và là người đoạt Giải Nobel Hoà bình năm 1964. Ông là một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ cũng như lịch sử đương đại của phong trào bất bạo động. King được nhiều người trên khắp thế giới ngưỡng mộ như một anh hùng, nhà kiến tạo hoà bình và thánh tử đạo.King dẫn dắt cuộc tẩy chay xe buýt diễn ra ở Montgomery (1955-1956), và giúp thành lập Hội nghị Lãnh đạo Cơ Đốc miền Nam (1957), trở thành chủ tịch đầu tiên của tổ chức này. Năm 1963, King tổ chức cuộc tuần hành tại Washington, và đọc bài diễn văn nổi tiếng "Tôi có một giấc mơ" trước hàng ngàn người tụ tập về đây. Ông nâng cao nhận thức của công chúng về phong trào dân quyền, và được nhìn nhận là một trong những nhà hùng biện vĩ đại nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Năm 1964, King là nhân vật trẻ tuổi nhất được chọn để nhận Giải Nobel Hòa bình vì những nỗ lực chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc qua biện pháp bất tuân dân sự, và các phương tiện bất bạo động khác.Ngày 4 tháng 4 năm 1968, King bị ám sát. Năm 1977, Tổng thống Jimmy Carter truy tặng King Huân chương Tự do của Tổng thống. Đến năm 1986, ngày Martin Luther King, Jr. được công nhận là quốc lễ. Năm 2004, ông được truy tặng Huân chương vàng Quốc hội. 7. Winston Churchill:Churchill đã từng là một cậu bé nổi loạn, không học hành tốt khi ở trường và thậm chí là trượt lớp 6. Ông bị âật nói ngọng và nói lắp. Ông cũng từng thử thách mình trong xây dựng quân sự và sự nghiệp chính trị nhưng ông đều thua trong hầu hết các cuộc tranh cử mà ông tham gia. Những năm sau đó, ông đã bị cô lập thậm chí từ ngay trong đảng Bảo thủ Anh. Uy tín chính trị của ông đã bị ảnh hưởng nặng nề đến nỗi ông đã tự đày mình tạm thời khỏi Nghị viện và Hạ viện.Nhưng Churchill là một trong số những người đầu tiên nhìn thấy sự nguy hiểm của Đức Quốc xã và cố gắng trở thành thủ tướng Anh ở tuổi 62 trong Thế chiến II. Sự kiên định của ông đã giúp cho nước Anh chống lại Hít le, sau đó là đánh bại Đức Quốc xã và đưa ông trở thành “Người Anh vĩ đại nhất của mọi thời đại”. 8. Lucille Ball:Lucille bị đuổi ra khỏi trường Sân khấu Nghệ thuật John Murray Anderson tại New York vì nỗi sợ hãi mỗi khi biểu diễn. Sau đó, bà tiếp tục quay trở lại New York với tư cách một người mẫu thời trang và diễn viên, bị sa thải bởi ít nhất hai nhà sản xuất. Bà tới Hollywood, ký hợp đồng với Metro-Goldwyn-Mayer, nhưng những nỗ lực hết mình cũng chỉ đưa bà đến với các bộ phim điện ảnh hạng B.Cuối cùng bà đã tìm thấy con đường của mình ở lĩnh vực phát thanh và truyền hình, một loại hình giải trí mới trở lại vào những thập niên 40 và 50. Bà cùng với chồng là ông Desi Arnaz đã cho ra mắt chương trình truyền hình “I Love Lucy” trình chiếu trên đài CBS. Đây là một trong những chương trình phát sóng lâu nhất trong lịch sử truyền hình và giúp bà trở thành một diễn viên hài nổi tiếng. 9. Steven Spielberg:Là một người đàn ông trẻ mắc chứng khó đọc, lá đơn xin vào trường Đại học Sân khấu, Điện ảnh và Truyền hình Nam California của ông đã bị từ chối ba lần. Thay vào đó, ông đến trường Đại học bang California nhưng cuối cùng ông cũng bỏ học tại đó.Tác phẩm đầu tay của nhà đạo diễn nổi tiếng này là “Sugarland Express” được giới phê bình đánh giá cao nhưng lại thất bại về doanh thu phòng vé. Tuy vậy, Spielberg đã tiến lên phía trước và được giao cơ hội với những bộ phim có ngân sách lớn như “Jaws”, “Close Encounters of the Third Kind”, “ET”, “Raiders of the Lost Ark” và “Jurassic Park”.Nhưng Viện Hàn lâm Điện ảnh và Khoa học đã “ghẻ lạnh” với ông trong nhiều năm và không trao cho ông giải thưởng Đạo diễn xuất sắc nhất cho tới năm 1993 khi ông đạo diễn phim “Schinder’s List”. Từ đó cho đến nay, ông được công nhận là một đạo diễn hạng A của Hollywood và là quyền lực nghệ thuật chính trong lịch sử phim ảnh. 10. Walt Disney:Disney đã từng bị biên tập viên sa thải khi ông còn là một nghệ sĩ trẻ vì “thiếu ý tưởng hay” và “thiếu trí tưởng tượng”.Disney muốn lập ra công ty thiết kế phim họat hình ngắn. Nhưng những lần thử đầu tiên của ông đã thất bại. Đã có thời điểm, ông bị mất một vài nhân viên và quyền sở hữu nhân vật hoạt hình vào tay Universal Pictures. Nhưng cuối cùng, ông đã xây dựng được một đế chế giải trí khổng lồ với những nhân vật hoạt hình kinh điển nổi tiếng như vịt Donald và chuột Mickey cùng với những bộ phim đột phá như “Nàng Bạch Tuyết” hoặc “Người đẹp ngủ trong rừng”. 11. J.K.Rowling:Đã có thời điểm, tác giả nổi tiếng của bộ truyện Harry Potter là một bà mẹ đơn thân thất nghiệp tuyệt vọng nuôi con nhờ tiền trợ cấp xã hội. Cô thậm chí còn vừa ôm con vừa viết tập truyện đầu tiên của Harry Potter trong một quán cà phê, vừa viết vừa ăn và cho con ngủ. Cuốn sách của cô đã bị từ chối bởi không dưới 12 nhà xuất bản.Tuy nhiên sau đó, nhà xuất bản Bloomsbury đã đồng ý xuất bản cuốn truyện này. Cuốn truyện dành được nhiều lời khen ngợi và bán được rất nhiều bản thảo, giúp cho Rowling có thể tiếp tục viết tiếp những phần sau và trở thành người giàu có với số tài sản thậm chí còn nhiều hơn Nữ hoàng Anh. 12. Steve Jobs:Jobs đã định nghĩa lại cách thế giới sử dụng máy tính cá nhân thông qua công ty máy tính mà ông sáng lập, Apple Inc. Ông đã tạo ra máy tính Mac và GUI (Giao diện đồ họa người dùng). Nhưng ông đã bị sa thải bởi hội đồng giám đốc, khiến ông chán nản và thất vọng.Ông bắt đầu lại với một công ty khác với tên gọi NeXT Computer, phát triển công nghệ máy tính cá nhân thế hệ tiếp theo và mua hãng phim Lucasfilm rồi đổi tên thành Pixar. Khi công ty Apple đang lụi bại mời ông quay trở về, ông đã đồng ý trở lại tiếp quản công ty và cuối cùng đã đưa Apple thành một trong những công ty sáng tạo và lợi nhuận nhất hành tinh. 13. Abraham Lincoln:Vị tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ là người đã kết thúc chế độ nô lệ ở đất nước này. Ông tự học ở nhà trong một gia đình ở biên giới đất nước. Ông đã cố gắng kinh doanh riêng và bước chân vào con đường chính trị nhưng do thiếu nền giáo dục từ nhỏ, sự kết nối quyền lực và tiền bạc mà ông đã thất bại hai lần trong kinh doanh và tám lần trong các cuộc bầu cử. Khi kết hôn với bà Mary Todd, họ có bốn người con trai nhưng ba trong số họ đã chết sớm do bệnh tật. Điều này đã gây ra bệnh trầm cảm cho ông.Nhưng vào năm 1860, ông được đề cử là ứng viên của đảng dân chủ cho chức tổng thống. Ông đã thắng cử và trở thành Tống thống Hoa Kỳ trong thời nội chiến và kết thúc chế độ nô lệ cho những người Mỹ gốc Phi. 14. Tình bạn vĩ đại và cảm động giữa Friedrich Engel và Karl Marx.Trong nghiên cứu khoa học cũng như trong đấu tranh thực tiễn, Marx đã tìm thấy ở Engels một người bạn chiến đấu trung thành, một trợ thủ không thể thay thế được, một người mà tên tuổi và sự nghiệp gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của bản thân Marx.Lần đầu tiên, Engels gặp Marx vào cuối tháng 11-1842 trong lúc Engels ghé thăm Bộ Biên tập báo “Neue Rheinische Zeitung”, khi trên đường qua nước Anh. Tiếp đó, trong cuộc gặp gỡ lịch sử tháng 08-1844 ở Paris, hai người nhất trí hoàn toàn về tư tưởng, quan điểm trong mọi vấn đề lý luận và thực tiễn. Từ đó bắt đầu một tình bạn thắm thiết và sự cộng tác keo sơn có một không hai trong lịch sử.Sau khi Marx sang nước Anh, Engels tự đặt cho mình nghĩa vụ phải giúp đỡ về mặt vật chất cho gia đình Marx để có thể theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu lý luận và hoạt động chính trị của mình. Vì thế, tháng 11-1850, Engels buộc phải đến Manchester làm việc tại hãng buôn “Ermen và Engels”, trở lại nghề buôn bán mà ông thường nguyền rủa. Ngót 20 năm sau, sau khi tập I bộ “Tư bản” được xuất bản, Engels mới thoát khỏi “cái nghề chó má” ấy và được “trả lại tự do”. Trong những năm Engels ở Manchester, ông và Marx đã gửi cho nhau trên 1.500 bức thư thảo luận rộng rãi những vấn đề về triết học, kinh tế chính trị, chiến lược, sách lược của giai cấp vô sản và nhiều lĩnh vực khác.Sau khi Marx mất, Engels phải dẹp những công trình nghiên cứu của mình sang một bên và dành những năm cuối của đời mình cho việc chỉnh lý và đưa in các tập còn lại của bộ “Tư bản” mà Marx đã phải bỏ dở. Engels đã làm việc ấy với tình cảm sâu nặng, ý thức trách nhiệm và lòng tận tâm hiếm có. 15. Albert Einstein:Einstein đã từng bị coi là người đàn ông chậm chạp. Ông ghét sự khuôn phép của trường học. Khi 16 tuổi, ông đã trượt kỳ thi đầu vào của trường Bách khoa Liên Bang Thụy Sỹ tại Zurich. Thay vào đó, ông phải học một trường nhỏ hơn. Cho dù ông đã cố gắng có bằng sư phạm từ trường Bách Khoa Thụy Sỹ sau đó, ông đã thất nghiệp hai năm. Sau đó, ông đã có công việc giám định bằng sáng chế cho Cơ quan Sáng chế Thụy Sỹ.Nhưng ông đã thử sức mình với các báo cáo khoa học của riêng mình từ năm 1901 đến 1905 (trong đó có báo cáo về thuyết tương đối) mà sau này trở thành bước đột phá trong khoa học. Năm 1909, ông được công nhận là nhà khoa học tiên phong hàng đầu và là một trong những người sở hữu trí óc siêu việt nhất trong lịch sử loài người. 16. Henry FordTrước khi hãng xe Ford có được một cơ ngơi như ngày nay, người sáng lập Henry Ford đã từng lập rồi phá ba công ty. Công ty thứ nhất mang tên Detroit nhưng nhanh chóng phá sản do Henry Ford chỉ tập trung thiết kế xe mà không kinh doanh. Công ty thứ hai mang tên ông chuyên về xe đua, nhưng sau đó chính Henry Ford bị các nhà đầu tư buộc rời khỏi công ty. Doanh nghiệp thứ ba thì bị phá sản do doanh thu đi xuống.Nhưng những gì mà Ford có được ngày hôm nay đã khẳng định rằng, những thất bại của ông trước kia không hề vô nghĩa. Chính những lần phá sản, thất bại trong kinh doanh đã giúp cho người sáng lập hãng xe hàng đầu này có thêm nhiều bài học xương máu, khiến ông có được nhiều bước tiến khôn ngoan trong cuộc đua của ngành công nghiệp sản xuất ô tô đầy khốc liệt. 17. Ông "gà rán" Harland David SandersÔng già Colonel với nụ cười hiền hòa trên biểu tượng quen thuộc của nhãn hàng ăn nhanh KFC, đó chính là người sáng lập - “Đại tá bang Kentucky” Harland Sanders. Nhưng không ai biết rằng đến tận tuổi 65, Sanders vẫn là một ông già tay trắng khi vợ bỏ, công việc từ chối và phải nhận phần trợ cấp thất nghiệp từ Chính phủ. Ở cái tuổi đáng lẽ ra phải được nghỉ ngơi, Sanders lại rong ruổi khắp nơi để tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Sanders đã bị từ chối 1.009 lần. Ông đã bán bí quyết của mình với giá là 5 xu trên mỗi miếng gà bán tại các đại lý, và hầu hết các cuộc làm ăn được giao kèo chỉ với một cái bắt tay.Những bước khởi động không thành công ấy không làm cho người đầu bếp này nản chí. Bằng sự kiên trì và niềm đam mê với những món ăn, ông đã tạo ra một công thức chế biến gà độc đáo. Cho đến tận hôm nay, công thức chế biến gà của Sanders vẫn thu hút hàng triệu người trên toàn cầu. 18. Soichiro Honda:Cuộc đời của Soichiro Honda, chủ tịch, người sáng lập ra Tập đoàn Honda hùng mạnh hàng đầu Nhật Bản và tầm cỡ thế giới, không phải là “con đường nhung lụa” mà là một chuỗi dài những nỗ lực và sáng tạo không ngừng nghỉ, những thất bại đơm hoa kết trái cho thành công. Ông đi lên từ tuổi thơ khốn khó, khởi nghiệp chỉ với hai bàn tay trắng và một khối óc yêu kỹ thuật và sáng tạo và đã gây dựng nên cả một Tập đoàn Honda hùng mạnh.Honda đã từng tâm sự rằng “Đối với tôi, thành công có thể chỉ đạt được khi đã trải qua nhiều thất bại và nghiền ngẫm. Trên thực tế, trong tất cả những việc ta làm, thành công chỉ chiếm 1%, 99% khác là thất bại”. Tinh thần làm việc, nghị lực và lòng say mê với khoa học là chìa khoá đưa Honda đến thành công.Soichiro Honda mãi mãi ra đi năm 1992, nhưng người đời còn nói nhiều về ông, ca ngợi ông, mỗi khi nghĩ tới một điển hình của “thiên tài không bằng cấp”. 19. Raffaello:Raffaello – họa sĩ và kiến trúc sư nổi tiếng người Ý. Ông sinh tại thành phố nhỏ Urbino nhưng quan trọng về mặt nghệ thuật ở miền trung Ý trong vùng Marche. Cha ông là một họa sĩ nổi tiếng, từ nhỏ đã cho Raffaello theo học những thầy giáo giỏi và ông học rất xuất sắc. Khi được 21 tuổi, ông đến Firenze và nghiên cứu tỉ mỉ các tác phẩm của những bậc thầy trước đó.Ngoài chuyên môn họa sĩ, Raffaello còn là một kiến trúc sư lỗi lạc. Ông là một tấm gương đáng noi theo về việc phát huy không chỉ sở trường của mình mà còn biết nghiên cứu hầu hết các lĩnh vực liên quan, trở thành một con người toàn diện. 20. Leonardo da Vinci:Leonardo da Vinci được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố Firenze. Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ và tạo hình. Cha của Leonardo đưa một vài tranh vẽ của ông cho một người quen xem, Andrea del Verrocchio, người ngay lập tức nhận ra được tài năng về nghệ thuật của Leonardo và được Ser Piero chọn làm thầy cho Leonardo.Ông được người cha cho sống tự lập từ nhỏ và điều này khiến ông trở nên vô cùng cứng rắn, mạnh mẽ trong việc xử lí các tình huống khó khăn trong cuộc sống cũng như trong việc học tập nghệ thuật của ông. Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về máy bay trực thăng, xe tăng, dù nhảy, sự sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, cùng nhiều sáng chế khác. 21. Picasso:Chuyện kể rằng, thuở thiếu thời Picasso là một họa sỹ vô danh và nghèo túng nơi Paris đầy hoa lệ. Đến lúc chỉ còn trong tay 15 đồng bạc, Picasso đã quyết định đánh canh bạc cuối cùng của cuộc đời mình. Ông thuê những sinh viên nghèo đi dạo khắp tất cả các phòng tranh trong thành phố và hỏi: “Ở đây có bán tranh của Picasso không?” Chưa đầy một tháng sau, Picasso trở thành cái tên được bàn tán nhiều nhất tại Paris, chính sự tò mò về người nghệ sĩ trứ danh đã giúp Picasso bán được tranh và nổi tiếng từ đó.Chúng ta đều biết Picasso là một danh họa tài hoa và nhiệt huyết với nghề. Nhưng sẽ ra sao nếu hôm đó 15 đồng bạc được dùng vào việc khác? Cơ hội là do chúng ta tạo nên. Ai đó nói rằng " khi một cánh cửa đóng lại, sẽ có một cánh cửa khác mở ra. Và con người đích thực luôn tiến về phía trước " - những ai biết tự mở cho mình cánh cửa mới. 22. Giản Tư Trung:Giản Tư Trung sinh ra ở một huyện nghèo khó của tỉnh Nghệ An. Mảnh đất học nổi tiếng khắp 3 miền này trở thành một vườn ươm thuận lợi cho Trung phát triển. Thời phổ thông, Trung từng nổi đình nổi đám với Giải Nhất học sinh giỏi lý toàn tỉnh. Nhưng phải đến tận khi bước chân vào đại học, ở vị trí Phó Bí thư đoàn trường, Trung mới phát huy được năng lực của mình. Tham công tiếc việc, Trung ôm đồm cả việc học của mình, việc chung của đoàn thể nhưng vẫn dành thời gian cho niềm đam mê kinh doanh không thể lý giải.Từng thất bại, vấp ngã cay đắng rồi giành lại thành công, Trung chưa từng cạn niềm đam mê được là người tiên phong phát quang bụi rậm, “rắn rết”, mở đường đi mới. Quan niệm “nghĩ như voi, làm như kiến” đã khiến Trung vừa có được tầm nhìn xa trông rộng về mọi vấn đề, vừa không bao giờ bị bước hụt chân. Kiên trì đi từng bước chậm rãi, tha từng chút “mồi” về “tổ”, con kiến lửa Giản Tư Trung đã dần dần hiện thực hoá giấc mơ ngông xuất khẩu giám đốc bằng sự ra đời của Trường đào tạo doanh nhân PACE. 23. Đặng Lê Nguyên Vũ:Chứng kiến cảnh cha bị bệnh nặng, chỉ cần 2 triệu đồng chữa trị mà vay mượn cả đại gia đình cũng không đủ, cậu con trai 16 tuổi - Đặng Lê Nguyên Vũ đã thề với lòng: “Một ngày nào đó mình sẽ thay đổi cuộc sống của cả đại gia đình này!”.Những năm 1990, thầy cô và các sinh viên Trường Đại học Tây Nguyên không ai không biết đến Đặng Lê Nguyên Vũ, chàng sinh viên khoa Y với nhiều ước mơ và hoài bão vượt ra phạm vi đất nước. Nhận ra ngành Y không thể đáp ứng được ước mơ và tham vọng của mình, năm thứ ba đại học, anh quyết định nghỉ học và đón xe vào thành phố Hồ Chí Minh để tìm kiếm cơ hội.Ít ai biết rằng, chàng trai trẻ khởi nghiệp với căn nhà thuê chỉ vài mét vuông để xay cà phê, vay từng kí cà phê, đạp xe hàng cây số để đi giao hàng… lại trở thành ông chủ của tập đoàn sản xuất cà phê hàng đầu Việt Nam. 24. Nguyễn Thế Hoàn:Nguyễn Thế Hoàn (lớp 11 THPT Chuyên Khoa học Tự nhiên, ĐH Khoa học Tự nhiên) đạt huy chương Vàng trong kì thi Olympic Toán Quốc tế 2014.Hoàn sinh ra trong một gia đình thuần nông ở xã Hòa Bình, huyện Hưng Hà (Thái Bình). Ba sào ruộng cấy lúa quanh năm của cha mẹ chẳng đủ nuôi 4 miệng ăn. Thương bố mẹ làm lụng vất vả, Hoàn luôn chăm chỉ học hành. Với năng khiếu bẩm sinh, suốt những năm cấp 1, 2, em đều đạt danh hiệu học sinh giỏi, rinh nhiều giải cao cấp tỉnh.Thi vào THPT, Hoàn đỗ liền ba trường chuyên Sư phạm Hà Nội, Khoa học tự nhiên và chuyên Thái Bình. Ước mơ là được học tại ngôi trường của nhiều anh chị đạt giải cao thi Olympic quốc tế như Lê Hùng Việt Bảo, Ngô Đăng Tuấn…, Hoàn xin bố mẹ cho lên Hà Nội học.Ngày Hoàn nhập trường cũng là lúc bố mẹ em rời làng quê, khăn gói lên thủ đô đi phụ hồ. Vợ chồng anh chị không thuê nhà trọ mà công trình ở đâu thì dựng lều bạt sống tạm tại đó. Ngày ốm vừa vừa, khi nắng gắt, mưa bay, họ vẫn ra công trường luôn chân luôn tay đảo vữa, bê đồ. Mỗi tháng hai vợ chồng kiếm được 6-7 triệu đồng. Quá nửa số đó dành đóng tiền học phí cho con và sinh hoạt. Số còn lại anh chị gửi về quê cho ông bà chăm sóc giúp cậu con út đang học lớp 9 chuyên Văn.Nhận được tiền học bổng, Hoàn đều đưa cho bố mẹ. Em động viên đấng sinh thành giữ sức khỏe hoặc về quê cấy lúa, làm may cho đỡ nhọc nhằn. Hoàn dự định vào lớp 12 sẽ đi làm gia sư để đỡ đần bố mẹ.Tấm HCV Olympic Toán quốc tế chính là món quà quý giá để em báo đáp công lao của bố mẹ. 25. Bài học từ những chú hươu cao cổ:Mỗi lần một chú hươu con ra đời đều là một bài học. Khi sinh con, hươu mẹ không nằm mà lại đứng, như vậy hươu con chào đời bằng một cú rơi hơn 3m xuống đất và nằm ngay dưới đó. Sau vài phút, hươu mẹ làm một việc hết sức kỳ lạ, đó là đá vào người con mình cho đến khi nào nó chịu đứng dậy mới thôi.Khi hươu con mỏi chân và nằm, hươu mẹ lại thúc chú đứng lên. Cho đến khi thực sự đúng được, hươu mẹ lại đẩy chú ngã xuống để hươu con phải nỗ lực tự mình đứng dậy trên đôi chân còn non nớt.Điều này nghe có vẻ lạ với chúng ta, nhưng lại thực sự cần thiết cho hươu con bởi chúng phải tự đúng được để có thể tồn tại với bầy đàn, nếu không sẽ bị trơ trọi với cuộc đời và trở thành miếng mồi ngon cho thú dữ.Con người chúng ta cũng vậy, thật dễ nản chí khi mọi việc đều trở nên tồi tệ. Nhưng cho dù đang phải đối mặt với nhiều gian khổ thì ta vẫn phải giữ vững niềm tin. Hãy ghi nhớ rằng mỗi khi ta phải đối mặt với nghịch cảnh, trong ta luôn có một sức mạnh tiềm ẩn.Đừng bao giờ để thất bại quật ngã mà hãy để nó trở thành "thầy" của chúng ta. Đây chính là bí quyết để thành công. Người ta không thua khi bị đánh bại mà chỉ thua khi đầu hàng. "Tôi không bao giờ nản chí vì đối với tôi mỗi một nỗ lực không thành công là một bước tiến bộ" -Thomas Edison. 26. Bài học từ chim đại bàng:Đó là loài chim có tuổi thọ cao nhất trong chủng loại của mình. Chúng có thể sống tới 70 tuổi. Nhưng để sống được tới tuổi này, chúng phải trải qua một quyết định khó khăn vào năm 40 tuổi.Khi đó, Những móng vuốt dài và linh hoạt không còn đủ sức tóm giữ con mồi làm thức ăn. Chiếc mỏ dài và sắc nhọn trở nên cong yếu.Đôi cánh nặng nề và già cỗi, do bộ lông dày, trở nên dính chặt vào ngực và khiến cho chúng khó bay lượn. Vì thế, đại bàng chỉ còn hai sự lựa chọn: chết hoặc trải qua một quá trình thay đổi đau đớn kéo dài 150 ngày.Quá trình này đòi hỏi đại bàng bay lên đỉnh núi và ngồi trên tổ của mình. Tại đây đại bàng sẽ đập mỏ vào đá cho đến khi mỏ gãy rời. Sau khi mỏ gãy, đại bàng sẽ đợi cho mỏ mới mọc ra rồi sau đó bẻ gãy hết các móng vuốt của mình. Khi những móng vuốt mới mọc lại, đại bàng bắt đầu nhổ hết những chiếc lông cũ già cỗi.Và sau 5 tháng, đại bàng lại có thể tiếp tục những chuyến bay lượn tuyệt vời của sự hồi sinh và sống thêm 30 năm nữa.Hãy học từ đại bàng…Hãy trở nên thật dũng cảm và kiên cường để trải qua một giai đoạn thay đổi đầy khó khăn, chịu đựng nhiều đau khổ và thử thách để được hồi sinh và tiếp tục bay cao, bay xa hơn nữa…không trải qua gió mưa làm sao thấy được cầu vồng. 27. Bài học từ loài kiến:Thứ nhất: Kiến không bỏ cuộc. Đó là một triết lý đơn giản nhưng rất hữu hiệu. Nếu một con kiến đang đi về một hướng nào đó, và chúng ta tìm cách chặn đường chúng, kiến sẽ tức thì tìm cho mình một con đường khác. Chúng trèo qua chướng ngại, chui xuống dưới hoặc chui vòng sang bên hông. Chúng không ngừng tìm kiếm một giải pháp khác để vượt qua chướng ngại vật phía trước. Quả là một triết lý gọn gàng và đơn giản: không ngừng tìm kiếm hết cách này đến cách khác để tiến đến mục tiêu mà chúng ta nhắm tới.Thứ hai, kiến luôn chuẩn bị cho mùa đông trong suốt mùa hè. Bạn không thể quá ngây ngô tin rằng nắng ấm sẽ kéo dài mãi mãi. Vì vậy kiến làm việc chăm chỉ để tích lũy cho những lúc cần đến.Thứ ba, kiến luôn tin vào mùa hè trong suốt mùa đông! Điều này rất quan trọng. Trong suốt mùa đông giá rét, kiến tự nhắc mình: “Mọi thứ rồi sẽ qua thôi! Đâu có mùa đông nào là mãi mãi!”. Và ngày nắng ấm đầu tiên, những con Kiến lại lên đường. Chúng háo hức để được sống chứ không phải là tồn tại!Cuối cùng, kiến sẽ tích lũy bao nhiêu lương thực trong mùa hè để chuẩn bị cho mùa đông? Câu trả lời là “nhiều hết ga có thể”. Đây là một triết lý tuyệt vời, “nhiều hết ga có thể”! Hãy học hỏi loài kiến trong lần tiếp theo nếu bạn tự hỏi mình: Tôi nên đọc bao nhiêu cuốn sách? Tôi nên chạy bao xa? Tôi nên làm việc đến mức nào? Tôi nên học đến bao nhiêu? Tôi nên yêu thương đến mức nào? Câu trả lời luôn là: “Nhiều hết ga có thể!”.Ngày hôm nay, dù các bạn đang ở trong mùa đông hay mùa hè, đang chiến đấu hay đang dưỡng sức, hãy nhớ về những chú Kiến và thừa hưởng sự khôn ngoan của chúng nhé! Những triết lý rất giản dị đúng không? Thành công cũng giản dị như vậy thôi: Không bỏ cuộc, Tiên liệu trước, Luôn lạc quan và Nhiều hết ga có thể! 28. Quách Tuấn Khanh:Năm 1994, anh nghỉ học giữa chừng khi đang là sinh viên Trường học Y dược TP.HCM. Năm 2000, anh từ bỏ công việc khi đang là một trong những chuyên gia hàng đầu trong nước. Tất cả đều vì một mục đích, tìm kiếm cho mình một niềm say mê thực sự. Cuối cùng anh đã tìm thấy: trở thành một diễn giả chuyên nghiệp. Anh chính là người tiên phong trong nghề diễn giả tại Việt Nam, Quách Tuấn Khanh - Giám đốc Trung tâm Thành công và Hạnh phúc. 29. Lê Vũ Hoàng "Cổ tích Olympia từ... mái nhà tranh”.Sinh ra trong mảnh đất miền Trung nghèo khó, vượt qua mọi sự thiếu thốn, ngày diễn ra kì thi Olympia lần thứ 6 cũng là ngày mẹ Hoàng phải lên bàn mổ vì u não. Vượt qua mọi khó khăn, cuối cùng chàng trai trẻ vùng đất Quảng Bình giành được vòng nguyệt quế vinh quang. 30. W.Clement Stone:Khởi nghiệp là một cậu bé bán báo, đã dựng thành công ty bán bảo hiểm lớn nhất thế giới khi ông đã học được và áp dụng bí quyết duy trì ngọn lửa nhiệt huyết trong lòng mình. Vì vậy, ông đạt được hết mục tiêu này đến mục tiêu khác: “Không một trận đấu quan trọng nào bạn có thể chiến thắng mà không có lòng nhiệt huyết”. 31. Franklin:Franklin là một nhà khoa học đam mê việc tìm ra những phát kiến mới trong khoa học. Ông đã chế tạo ra cột thu lôi. Những năm nghiên cứu là quãng thời gian ông phải đối mặt với những điều vô cùng khó khăn bởi cái chết có thể đến với ông bất cứ lúc nào. Nhưng vượt lên trên tất cả, ông đã thành công từ việc say mê nghiên cứu, say mê làm việc của mình. 32. A-dam Khoo, tác giả cuốn sách “Tôi tài giỏi, bạn cũng thế”:Nhờ đổi mới phương pháp học tập mà từ một học sinh kém, A-dam Khoo đã thành học sinh giỏi, là một trong những sinh viên xuất sắc của Singapore, trở thành triệu phú khi chỉ mới 26 tuổi. Đó là một biểu hiện cho sự chủ động, sự đổi mới trên cơ sở những gì ý thức về thực tại học tập của mình để thay đổi trong tương lai. Không ỷ lại vào những gì của hiện tại mà anh luôn luôn chủ động thay đổi để tương lai được tốt đẹp hơn. 33. Chữ Nhất Hiệp:Chữ Nhất Hiệp là tuyên truyền viên chính của Viện huyết học truyền máu trung ương. Anh đã vận động được trên 150.000 lượt người tham gia hiến máu tình nguyện, đào tạo 25.000 tuyên truyền viên. Bản thân anh cũng đã trực tiếp hiến 21 lít máu và cống hiến hàng ngàn ngày công tham gia vận động hiến máu nhân đạo. Anh là một tấm gương đáng để mỗi người trong chúng ta học tập. 34. Nhà thơ Trần Đăng Khoa:Được mệnh danh là thần đồng thơ ca ngay từ nhỏ. Nếu không trải qua quá trình rèn giũa tài năng này hằng ngày thì tài năng này sẽ dần dần bị thui chột. Nhà thơ Trần Đang Khoa không như thế, ông luôn ý thức được viết hằng ngày, ông viết cả thơ và văn xuôi. Trần Đăng Khoa tâm sự, dù có cảm hứng viết hay không, ngày nào ông cũng ngồi vào bàn viết. Ông quan niệm: Phải ngồi vào viết thì mới có cảm hứng, không được đợi cảm hứng rồi mới viết. Tính đến thời điểm hiện tại, Trần Đăng Khoa vẫn hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ, phê bình với những tác phẩm được đánh giá cao. Tác phẩm của ông không mang cảm hứng tuổi thơ như các sáng tác thời nhỏ tuổi mà chuyển dần sang cảm hứng thế sự, viết về nhũng vấn đề về lẽ sống, làm người. 35. Nguyễn Trần Bạt: “Từ cậu bé bán nước chè dạo đến ông chủ tập đoàn”.Từ một cậu ấm nhưng sau một biến cố của cuộc đời, Nguyễn Trần Bạt đã phải đi bán nước chè dạo ở Ga Hàng cỏ lúc mới 7 tuổi. Ông đã từng trải qua những giai đoạn khó khăn trong cuộc đời, thậm chí có lúc đã phải mất đứa con gái vì không đủ tiền chữa bệnh cho con... Nhưng mấy chục năm sau, cậu bé ấy đã trở thành người chuyên cung cấp dịch vụ cho các tập đoàn đa Quốc gia. Hiện ông Bạt là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc của Invest Consult Group với doanh thu hàng triệu USD mỗi năm. 36. Tình bạn của Lưu Bình và Dương Lễ ngày xưa.Khi Dương Lễ là một thư sinh nghèo khổ, Lưu Bình không những không chê bai mà còn kết giao bạn hữu và tạo điều kiện cho Dương Lễ ăn học. Đến khi Dương Lễ công thành danh toại, Lưu Bình chỉ là một kẻ ăn mày rượu chè bê tha. Nhớ đến nghĩa tình bạn bè năm xưa, Dương Lễ đã nhờ vợ mình giúp nuôi và đốc thúc việc học của Lưu Bình. Sau đó, Lưu Bình đỗ đạt làm quan. 37. Chuyện kể rằng, trên đường đi chiến dịch Điện Biên Phủ, khi băng qua một cánh rừng, Bác Hồ và đoàn cán bộ cao cấp của ta tình cờ gặp mấy chiến sỹ đang áp giải hai tên tù binh Pháp, hôm ấy đúng vào ngày lễ Giáng sinh của người công giáo.Ngay sau khi gặp mặt, Bác Hồ tuyên bố rằng: Thay mặt Chính phủ Việt Minh tôi phóng thích cho hai ông! Hôm nay là lễ Giáng sinh tôi gửi lời chúc mừng tới vợ con và gia đình các ông cũng như toàn thể nhân dân Pháp. Việc làm của Bác khiến những chiến sỹ Việt Minh hết sức bất ngờ vì hai tên tù binh là những nhân vật quan trọng trong quân đội Pháp.Không để anh em lo lắng, Bác giải thích ngay: Không phải người lính lê dương nào cũng là tên thực dân! Người dân Pháp cũng yêu chuộng hoà bình và rất ghét chiến tranh...Được phóng thích một cách quá bất ngờ và sau khi nghe Bác nói, hai tù binh Pháp vội quỳ xuống tạ ơn Bác Hồ và xin được giúp bộ đội ta đánh Pháp. Đó là một trong những câu chuyên cảm động về lòng bao dung của Hồ Chi Minh cũng như sự biết ơn của hai tù binh người Pháp. 38. Nước Nhật nổi tiếng với những phương pháp giáo dục đặc biệt.Hình ảnh của những trẻ em nước Nhật vai đeo balô, một mình đi tàu điện đến trường đã trở nên nổi tiếng trên khắp thế giới. Người Nhật ngay từ nhỏ đã được rèn luyện tính tự lập, tự chủ trong mọi công việc. Cũng chính bởi sự tự lập được rèn luyện ngay từ thời thơ ấu đó, bản lĩnh kiên cường của người Nhật, tinh thần làm việc dám dấn thân của người Nhật đã được hình thành. 39. Cụ Huỳnh Thúc Kháng:Cụ Huỳnh Thúc Kháng là người học rất giỏi, đã hai lần đỗ thủ khoa trong các kỳ thi Hương và thi Hội. Cụ còn là người rất ham học, lức nào cũng đọc sách tìm tòi cái mới, cái hay của sách vở, khám phá cái vô cùng của kiến thức. Trong thời gian bị đày đi Côn Đảo cụ đã tự học tiếng Pháp. Với cuốn từ điển Pháp dày khoảng 1.800 trang, cụ đã kiên tri học thuộc sau các buổi lao động khổ sai hằng ngày. Cụ là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần hiếu học, không ngừng vươn lên, biết tận dụng mọi cơ hội, thời gian để trau dồi tri thức. 40. Cô bé Malala:Cuộc đấu tranh của cô bé Malala đến từ đất nước Parkistan là một trong những biểu hiện rõ nét của tình yêu thương và lòng trắc ẩn. Xuất phát từ sự thấu hiểu nỗi khổ của những trẻ em trong chế độ của Taliban, Malala đã đấu tranh cho quyền được đi học, được tiếp xúc với nền văn minh thế giới của hàng nghìn trẻ em Hồi giáo. Cô bé bởi vậy đã nhận được giải Nobel Hòa bình năm 2014 khi mới 17 tuổi. 41. Sir James Dyson:Trong khi phát triển sản phẩm máy hút bụi của mình, Sir James Dyson đã trải qua 5.126 mẫu thử nghiệm không thành công và tiêu tốn tiền tiết kiệm của mình trong hơn 15 năm. Tuy nhiên, mẫu thí nghiệm thứ 5.127 hoạt động thành công và bây giờ thương hiệu Dyson là máy hút bụi bán chạy nhất ở Mỹ. 𝟒𝟐. Nhà tỷ phú của Microsoft, Bill Gates là một người rất thích việc đọc sách báo.Mỗi đêm trước khi đi ngủ, ông thường dành ra một giờ để đọc sách báo các loại, từ chính trị cho tới sự kiện đời thường. Bên cạnh việc cập nhật những thông tin bổ ích, việc đọc sách báo giúp cho Bill Gates có một đời sống tinh thần phong phú. 𝟒𝟑. Joel Gascoigne, giám đốc điều hành bận rộn của hãng Buffer thường thư giãn bằng cách đi bộ.Đối với một người bận rộn luôn luôn phải di chuyển, việc đi bộ sau mỗi ngày làm việc không những giúp Joel rèn luyện sức khỏe mà còn có thể thư giãn một cách tốt nhất. Đi bộ và ngắm nhìn khung cảnh thiên nhiên chính là cách để tâm hồn ông cảm thấy thư thái, bình yên. 44. Một trang thông tin Hàn Quốc vừa cho hay người ta đã làm một thử nghiệm đo độ trung thực của người dân Seoul bằng cách chuẩn bị 100 túi quà (gồm có hoa và hộp quà được bọc vô cùng bắt mắt) có gắn thiết bị định vị GPS và thả chúng dưới chân ghế của 100 chiếc tàu điện ngầm chạy trong tuyến đường số 1.Các kết quả vô cùng thú vị. Camera đã quay lại hình ảnh rất nhiều người dân sau một hồi ngó nghiêng đã xách túi quà lên. Đến cuối ngày, họ kiểm tra và chỉ thấy còn đúng 6/100 túi quà trở về nguyên vẹn. Đây có phải là một kết quả đáng thất vọng? Điều bất ngờ là đến ngày hôm sau, GPS thông báo kết quả 81 túi quà còn lại đang được tập trung tại Trung tâm lưu trữ đồ thất lạc của ga tàu điện ngầm. Tức có 87/100 túi quà đã trở về nguyên vẹn sau cuộc thử nghiệm này. 45. Theo một nghiên cứu, một trong 10 lý do quan trọng nhất khiến Singapore từ một quốc đảo nhỏ bé trở thành con rồng của châu Á là do các nhà lãnh đạo Singapore trung thực và luôn tận tụy với người dân của mình.Điều này khiến người dân cảm thấy tin tưởng vào các nhà lãnh đạo của họ, đồng thời khiến các nhà đầu tư yên tâm khi kinh doanh tại quốc đảo này. 46. Leona Davinci:Trong những ngày đầu tập vẽ, ông không vẽ gì khác ngoài những quả trứng. Đây là phương pháp giáo dục đặc biệt mà người thầy dạy vẽ của ông sử dụng. Thử thách được đặt ra cho nguời họa sĩ ở đây là làm sao vẽ hàng nghìn quả trứng giống hệt nhau. Việc rèn luyện từ những việc tưởng chừng như đơn giản và nhỏ bé ấy đã giúp cho Leona Davinci rèn luyện được một kĩ năng cầm bút tuyệt vời, giúp ông sau này có thể ghi lại sự vật, những ý tưởng mộtcách chính xác, tỉ mỉ. 47. Steve Jobs lớn lên tại gia đình cha mẹ nuôi ở Thung lũng Silicon, trung tâm của nền công nghệ điện tử Mỹ.Ông bỏ học cao đắng ngay sau học kỳ đầu tiên và đi làm cho công ty sản xuất trò chơi điện tử Atari để kiếm tiền đi du lịch Ấn Độ. Trước khi sáng tạo ra chiếc máy tính đầu tiên, Jobs đã theo học một lớp về nghệ thuật thư pháp. Học một môn học không liên quan đến ngành nghề mà ông đang theo đuổi tưởng chừng như là một công việc vô nghĩa. Nhưng không ngờ rằng, chính những bài học mà ông đã tiếp thu từ nghệ thuật thư pháp đã giúp ông sáng tạo ra những dòng sản phẩm tinh tế.Bài học mà ta có thế rút ra đó chính là sự chuẩn bị cho tương lai, từ những việc nhỏ nhất, tưởng như vô nghĩa lại là những viên đá lót đường giúp ta đến đích một cách nhanh chóng và thuận lợi hơn. 48. Vào giữa thế kỷ 19, Nhật Bản là một nước phong kiến, bế quan tỏa cảng, xã hội phân chia thành các giai cấp sĩ, nông, công, thương và chịu ảnh hưởng của Nho giáo.Thế rồi chiến thuyền Mỹ của đô đốc Perry xuất hiện ở cảng Edo năm 1853 đã khuấy động cả xã hội phẳng lặng đó. Nhưng chỉ có 15 năm (Minh Trị duy tân bắt đầu năm 1868), các sĩ phu, các lãnh đạo của Nhật đã biến một đất nước phong kiến bảo thủ trở thành một nhà nước tiếp thu toàn diện thế giới văn minh để tiến lên hàng các quốc gia thượng đẳng. Ý chí, trí tuệ và sự chuyển dịch tư tưởng rất nhanh của những lãnh đạo thời đó đã xoay chuyển đất nước một cách ngoạn mục với một tốc độ có thể nói là kỳ diệu. 49. Sự sẵn sàng thay đổi tư duy chính là tài sản khổng lồ của Steve Jobs.Chuyện kể rằng, chỉ 1 tuần trước khi iPhone thế hệ đầu ra mắt, Steve Jobs đã yêu cầu thay màn hình iPhone làm bằng nhựa sang màn hình làm bằng kính, chỉ vì ông phát hiện rằng một chùm chìa khóa đã làm xước màn hình chiếc iPhone nguyên mẫu.Businessvveek trích lời Tim Cook: “Ông ấy (Steve Jobs) có khả năng thay đổi tư duy mạnh hơn bất kỳ ai tôi đã từng gặp trong cuộc đời. Ông ấy có thể có được cách nhìn mới chỉ trong một phần nghìn giây. Khi mới chứng kiến điều đó, tôi tự nhủ “Ồ, việc này thật lạ!”. Sau đó tôi nhận ra đó là một món quà quý báu. Rất nhiều người, đặc biệt là các CEO và lãnh đạo cấp cao, khư khư giữ lại các ý tưởng cũ, họ từ chối hoặc không có đủ can đảm để thừa nhận mình đang làm sai. Có thể điều bị đánh giá chưa đủ mức nhất về Steve Jobs là khả năng thay đổi tư duy của ông ấy. Như bạn đã biết, đó là một tài năng, thực sự là một tài năng”. 50. Thomas Edison là con út trong một gia đình có 7 anh chị em.Ngay từ khi còn nhỏ, Edison đã tỏ ra là một cậu bé hiếu kì, ham hiểu biết, luôn thắc mắc “tại sao” và truy đuổi câu trả lời đển cùng. Mẹ của Edison rất hiểu tâm lí đứa con trai của mình và đã thoáng nhìn ra hình ảnh một thần đồng khoa học. Trước những câu hỏi kì lạ của con, bà thường kiên trì giảng giải tỉ mỉ và kích thích thêm sự tò mò của đứa con. Có một lần, Edison hỏi bố: “Bố ơi, tại sao lại có gió?”. Bố trả lời: “Edison, con không hiểu được đâu!”. Edison lại hỏi: “Tại sao con lại không hiểu được?”. Bố đáp: “Con hãy thử hỏi mẹ con xem”. Thế là Edison tìm đến mẹ và hỏi. Sau lần đó, bà Nancy trách chồng: “Anh không thể lúc nào cũng nói với con là nó không biết gì cả. Như thế là kìm hãm lòng ham hiểu biết của con chúng ta rồi đấy!”. 51. Desmond Morris nổi danh không chỉ như một nhà sinh học hành vi mà còn như một hoạ sĩ và nhà sản xuất phim theo trường phái siêu thực.Ông theo đuổi nghệ thuật trước khi nghiên cứu khoa học và một trong những động cơ nghiên cứu hành vi động vật là ông muốn cải thiện kỹ năng quan sát và vẽ tranh của mình. Như một hệ quả, phong cách khoa học của Morris cũng xuất phát chủ yếu từ chủ nghĩa siêu thực. Nghệ thuật và khoa học của Morris có chung một cơ sở phương pháp luận. Ông dùng giấc mơ để vẽ tranh từ những cảm xúc vô thức. Morris cũng dùng cách đó trong nghiên cứu khoa học. Ông kể, trong mơ ông trở thành động vật để chiêm nghiệm cái bản ngã của chúng: “Tôi cố gắng đặt bản thân vào vị trí con vật để những vấn đề của nó trở thành của tôi; và tôi không thêm một chút gì xa lạ vào cách hành xử của nó. Chỉ giấc mơ là lên tiếng”. Khả năng tưởng tượng để đồng nhất với đối tượng nghiên cứu như thế, cũng khá phổ biến trong các nhà nghiên cứu thế giới động vật. [*] Chia sẻ của thầy Trần Ngọc Tuấn, Giáo viên Trường THPT Tây Thạnh, TP.HCM.

Tính luận chiến trong bản "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh (PGS. TS Nguyễn Hữu Hợp)

️"Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh hội tụ đầy đủ và tinh tuý nhất những đặc điểm trên trong phong cách văn chính luận của Người, đặc biệt là tính luận chiến mạnh mẽ, sắc sảo trong việc tranh biện với kẻ thù , cụ thể ở đây là thực dân Pháp. Về phong cách văn chính luận của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, sách Ngữ văn 12 tập I - NXB Giáo dục Việt Nam năm 2013 trang 28 có viết: "Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầy sức thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp". Có thể khẳng định rằng: Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh hội tụ đầy đủ và tinh tuý nhất những đặc điểm trên trong phong cách văn chính luận của Người, đặc biệt là tính luận chiến mạnh mẽ, sắc sảo trong việc tranh biện với kẻ thù, cụ thể ở đây là thực dân Pháp. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn bước đầu gơi ra mục đích ,ý nghĩa của tính luận chiến trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh. Từ đó chỉ ra vẻ đẹp trong phong cách, tầm tư tưởng cao đẹp và cả tầm văn hoá uyên bác của Người trong hoàn cảnh đầy thử thách "dầu sôi lửa bỏng" của đất nước Việt Nam lúc bấy giờ. Trước hết, xin nói qua hoàn cảnh lịch sử Người viết bản Tuyên ngôn độc lập nước ta lúc bấy giờ . Vào thời điểm đó, nước ta đã giành được tự do, độc lập nhưng vận mệnh nền độc lập, tự do của đất nước ta như "ngàn cân treo sợi tóc". Bằng chứng là núp dưới danh nghĩa "giải giáp quân đội Nhật" của phe đồng minh, cùng một lúc bốn kẻ thù nhảy vào nước ta với âm mưu thôn tính Việt Nam: vào phía Bắc là quân đội Mỹ và Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch, tiến vào phía nam là quân đội Anh, núp sau quân viễn chinh Pháp. Hơn thế, tổng thống Pháp Đờ Gôn trắng trợn tuyên bố trước thế giới: "Việt Nam nguyên là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật chiếm đóng, nay Nhật đầu hàng đồng minh thì Việt Nam lại trở thành thuộc địa của người Pháp." Đó là chưa kể hai thứ giặc nguy hại khác: giặc đói và giặc dốt thi nhau "hoành hành" tàn hại nước ta... Gợi ra hoàn cảnh như vậy để thấy tính chất luận chiến trong bản Tuyên ngôn độc lập mà Người chọn lựa là sắc sảo, đích đáng và sáng suốt biết nhường nào! ️Vậy luận chiến là gì và tính chất luận chiến nên hiểu như thế nào? Theo Từ điển từ và ngữ Hán - Việt của giáo sư Nguyễn Lân - NXB Văn học 1988, luận chiến là "dùng lí luận đấu tranh để bảo vệ chân lí". Theo đó tính luận chiến được hiểu là tính chất chiến đấu bằng lí lẽ và cả chứng cứ khi cần thiết để bảo vệ chấn lí lẽ phải được mọi người thừa nhận. Đọc "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh, ta thấy toát lên tính chất luận chiến mạnh mẽ, đanh thép, sâu sắc. Ngay trong phần mở đầu bàn Tuyên ngôn độc lập, với ý nghĩa xác lập cơ sở pháp lí đúng đắn, vững chắc để tranh luận với kẻ thù, Người đã thâm ý dùng lại chân lí đã được cả thế giới thừa nhận ghi trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp. Đó là quyền tự do bình đẳng của con người: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền khoonh ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy ,có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" (Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mĩ). Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng khẳng định: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyến lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền. Rồi từ quyền tự do bình đẳng của con người, Bác "suy rộng ra" để khẳng định quyền tự do bình đẳng của các dân tộc trên thế giới "Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bính đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do." Sự sáng tạo và đóng góp lớn lao của Bác ở đây là từ chấn lí đã có Người tạo ra chân lí mới "không ai chối cãi được". Hơn nữa, kinh nghiệm đấu lí là dùng lí lẽ của đối phương để tranh luận lại đối phương thì rất hiệu quả là để "chặn họng" đối phương. Đây là phương pháp lấy "gậy ông đập lưng ông" thật đắc địa. Như vậy là việc dùng lại "chân lí" trong hai bản tuyên ngôn của nước Mí và Pháp không chỉ với mục đích tạo lập cơ sở pháp lí đúng đắn mà còn là "trân trọng các giá trị pháp lí văn minh của nhân loại" và là đòn hiểm trong nghệ thuật đấu lí dùng "gậy ông đập lưng ông" của Hồ Chí Minh. Phân tích như vậy để thấy Bác ta thông minh, sắc sảo, thâm thuý và chủ động đến nhường nào! Trong phần "luận tội" thực dân Pháp, lập luận của Bác cũng hết sức khéo léo và đanh thép hùng hồn. Trước khi "luận tội", Người đã chỉ ra bản chất giả nhân giả nghĩa, lừa bịp của thực dân Pháp. Hãy nghe Người viết: "Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẵn với nhân đạo và chính nghĩa." Ở nhóm tội ác về chính trị, Bác liệt kê ra 8 loại tội ác từ thấp đến cao mà thực dân Pháp đã gây ra đối với dân tộc ta từ: "không cho dân tày một chút tự do dân chủ, thi hành chính sách luật pháp dã man, thẳng tay chém giết những người yêu nước... Và cuối cùng là "thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm nòi giống ta suy nhược". Câu văn ngắn , cấu trúc câu được lặp lại nhiều lần (Chúng -tuyệt đối, thi hành, lập ra, ràng buôc...) tạo nên âm hưởng mạnh mẽ, hùng hồn đanh thép và thái độ căm thù sâu sắc trước những tội ác mà thực dân Pháp. Trong nhóm tội về kinh tế, Người cũng tiếp tục sữ dụng phép liệt kê tăng cấp (kẻ ra 6 loaị tội ác) và nghệ thuật điệp cú pháp để tranh biện,tố cáo tội ác của thực dân Pháp trước dư luận quốc tế. Đặc biệt ở nhóm tội ác trong 5 năm (1940-1945), Người vừa nêu tội ác vừa phân tích hậu quả. Đó là trong 5 năm, thưc dân Pháp hai lần bán đứng nước ta cho phát xít Nhật. Thực dân Pháp là kẻ phản bội lại phe đồng minh (không chịu hợp tác với Việt Minh chống Nhật,quỳ gối đầu hàng), là thủ phạm chính gây ra nạn đói khủng khiếp năm 1945, khiến hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói. Vậy là tất cả những hành động, việc làm của Pháp đều chống lại chúng. Pháp nói chúng thi hành chính sách "nhân đạo" ư? Thì đây: chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng tắm các cuộc khởi nghĩa ta trong những bể máu, chúng bốc lột dân tày đến tận xương tuỷ, thẳng tay khủng bố Việt Minh, nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng... Người Pháp nói sang Việt Nam để "khai hoá văn minh", để "bảo hộ" ư?. Thì đây: chúng thi hành luật pháp dã man, lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện và rượu cồn để làm cho nòi giống tày suy nhược... Người Pháp bảo hộ kiểu gì mà hai lần bán đứng nước ta cho phát xít Nhật? Tính chất luận chiến còn thể hiện ở nội dung khẳng định và đề cao tinh thần đấu tranh kiên cường anh dũng của nhân dân ta lập nên hai kì tích lớn lao là: đập tan xiềng xích thực dân gần 100 năm và chế độ phát xít lập nên nước Việt Nam tự do độc lập; đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ để lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Từ đó Bác khẳng định với người Pháp : sự thật là "dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp." Ở phần cuối bản Tuyên ngôn độc lập nước ta, Người khéo léo tranh thủ sự ủng hộ của phe đồng minh trong sách lược "thêm bạn bớt thù": "Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của nước Việt Nam". Thâm ý của Bác là: Anh, Pháp, Mỹ vốn là những đồng minh lớn của Liên Xô trong đại chiến thế giới thứ 2 chống lại phe phát xít Đức - Ý - Nhật. Bây giờ phe đồng minh đã ủng hộ Việt Nam, lẽ nào Pháp lại làm không thừa nhận? Ở cuối bản "Tuyên ngôn độc lập", Người dõng dạc tuyên bố trước toàn thế giới từng phương diện: trước tiên là "thoát li hẵn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyến của Pháp trên đất nước Việt Nam". Tiếp đến Người khẳng định "... dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!". Khép lai bản Tuyên ngôn độc lập, Người dõng dạc tuyên bố: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lương, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,độc lập ấy." Ấy là Bác muốn khẳng định với thực đân Pháp là: nền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam được lập nên bằng xương máu, bằng tinh thần đấu tranh kiên cường của nhân dân Vietj Nam. Vì vậy chúng ta sẽ bảo vệ thành quả ấy bằng tất cả những gì có thể. Và chúng ta đã thực hiện ý chí đó của Người bằng cuộc kháng chiến chống Pháp làm nên một chiến thắng lich sử Điện Biên Phủ "Lừng lẩy năm châu, chấn động địa cầu" năm 1954. Tìm hiểu tính chất luận chiến trong bản "Tuyên ngôn độc lập" của Hồ Chí Minh là để hiểu sâu sắc hơn nghệ thuật hùng biện, sức thuyết phục, nghệ thuật "đấu li" tài tình của Người qua cách bố cục bài văn chặt chẽ, qua hệ thống luận điểm, luấn cứ lô gic, qua hệ thống dẫn chứng cụ thể hùng hồn "không chối cãi được". Đó còn là nghệ thuật kết hợp sử dụng nhuần nhuyễn các phương thức biểu đạt hợp lí đạt hiệu quả, là cách đặt câu, khai thác các biện pháp tu từ... Vì vậy, đánh giá về bản Tuyên ngôn độc lập, sách Ngữ văn 12 tập I trang 38 đã viết: "Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm chính luận đặc sắc...". Tìm hiểu tính chất luận chiên trong "Tuyên ngôn độc lập" của Bác ta càng thấm thía hơn vẻ đẹp trong tư tưởng, phong cách, tình cảm của Hồ Chí Minh. Đó là một phong thái bình tỉnh, chủ động trong mọi tình huống, là "đấu lí, đấu trí" rất cao thương, văn hoá; kiên quyết mà vẫn mềm dẻo; rất kiên định nhưng cũng linh hoạt ứng biến... Đẹp nhất trong tư tưởng của Người là tinh thần yêu nước mãnh liệt, lòng tự hào tự tôn dân tộc sâu sắc; là tư duy sắc sảo, sáng tạo... Để khép lại bài viết của mình, tưởng không có nhận xét nào xác đáng hơn đánh giá sau đây trong sách Ngữ văn lớp 12 tập I: "Tuyên ngôn độc lập còn là áng văn tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hội tụ vẻ đẹp tư tưởng và tình cảm của Người, đồng thời kết tinh khát vọng cháy bỏng về độc lập, tự do của dân tộc ta". Trong hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên" của đại tướng Võ Nguyên Giáp có ghi đại ý: trong cả cuộc đời viết văn làm báo dày kinh nghiệm chưa bao giờ Bác cảm "thấy sung sướng, sảng khoái" đến như vậy sau khi hoàn thành bản Tuyên ngôn độc lập. Tôi vô cùng tâm đắc với ý kiến của giáo sư Hoàng Chí Bảo cho rằng Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí MInh là "quốc bảo" của nước Việt Nam.

Hình ảnh "biển" trong "Sóng" của Xuân Quỳnh (TS. Đoàn Minh Tâm)

“Sóng” là bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Xuân Quỳnh được nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam yêu thích và được đưa vào chương trình Ngữ văn THPT từ nhiều năm nay. Trong bài thơ, sóng nổi lên với tư cách là hình ảnh trung tâm, nơi kí thác gần như toàn bộ tư tưởng, tình cảm của tác giả. Tuy nhiên, bên cạnh sóng còn có một hình ảnh khác rất đáng quan tâm đó là biển (hay bể, đại dương theo cách gọi trong mỗi khổ thơ). Đây là hình ảnh đảm nhiệm vai trò “phông nền”, có tác dụng làm nổi bật lên hình tượng trung tâm của toàn bài thơ: con song. Song dù chỉ có chức năng của một “kép phụ”, tuy nhiên, biển cũng mang trong mình những ý nghĩa tự thân độc đáo, là nơi nhà thơ Xuân Quỳnh gửi gắm nhiều những suy nghĩ, khát vọng nhân sinh. Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh biển xuất hiện với tần suất khác cao trong bài thơ (5 trên tổng số 9 khổ).Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt điểm qua những ý nghĩa của hình tượng biển trong “Sóng”“Dữ dội và dịu êmỒn ào và lặng lẽSông không hiểu nổi mìnhSóng tìm ra tận bể”Ở khổ thơ đầu tiên, biển (bể) không đơn thuần chỉ là mặt nước bao la với một màu xanh ngăn ngắt mà mang ý nghĩa tượng trưng cho nguồn cội, gốc rễ căn bản của mỗi người. Trong khổ thơ đầu tiên này, vì những cung bậc cảm xúc trái ngược (ồn ào và lặng lẽ) cứ xâm chiếm làm cõi long chênh chao, khó hiểu nên sóng đã tìm về với biển để mong tìm ra lời giải đáp thỏa đáng cho bản thân. Biển là khởi thủy của song, là nơi sóng sinh thành. Do đó hành trình về với biển cũng là hành trình tìm về với nguồn cội, tìm về bản nguyên sơ khai của mình. Có thể thấy nhà thơ Xuân Quỳnh đã xây dựng hành trình của sóng dựa trên tín ngưỡng coi trọng biển cả gắn liền với truyền thuyết về mẹ Âu Cơ và tâm lí, truyền thống văn hóa đặc trưng coi trọng nguồn cội, quê hương xứ sở của người Việt.“Trước muôn trùng sóng bểEm nghĩ về anh, emEm nghĩa về biển lớnTừ nơi nào sóng lên?"Đến khổ thơ thứ ba, hình ảnh biển lại mang một ý nghĩa khác, sự rộng lớn vô cùng không thể nắm bắt của vũ trụ. Sau phút giây nghĩ về bản thân và người mình yêu (Em nghĩ về anh, em), cô gái – nhân vật trữ tình của bài thơ – đã hướng suy nghĩ đến vấn đề lớn hơn, nhiều hàm nghĩa hơn và cũng khó lí giải hơn: biển lớn. Ở đây, từ “tiểu tự sự”, cô gái đã hướng đến “đại tự sự”. Từ việc tìm hiểu con người cá nhân, cô gái đã hướng đến việc tìm hiểu những vấn đề bản nguyên nhất của trời đất: “Từ nơi nào sóng lên?” Sóng là một hiện tượng tự nhiên. Nhân vật chữ tình trong “Sóng”, trước tự nhiên, nảy sinh một mong muốn là tìm hiểu bản thân, về cuộc đời, về những câu hỏi lớn của nhân loại: “Ta là ai? Ta đến từ đâu? Ta đi về đâu?”. Rõ rang trong khổ thơ này, cảm xúc tình yêu không còn giữ vai trò chủ đạo mà được thay thế bằng cảm hứng triết lí nhân sinh.Trong khổ thơ thứ tiếp theo, nguồn cảm hứng này bị che khuất khi tình yêu đã chiếm trọn tâm trí của nhân vật trữ tình. Hình ảnh biển, do đó cũng bị nhạt nhòa đi và chìm khuất trong nỗi nhớ còn cào, da diết của con sóng. Tuy nhiên khi những cung bậc tình cảm đã qua phút giây cao trào để đi vào lắng đọng chiều sâu, khi lí trí đồng hành trở lại cùng con tim, nhân vật trữ tình trong “Sóng” lại hướng đến những suy nghxi mang màu sắc hiện thực hơn, tỉnh táo hơn. Và, hình ảnh biển cũng xuất hiện trở lại trong ba khổ thơ cuối cùng:“Ở ngoài kia đại dươngTrăm ngàn con sóng đóCon nào chẳng tới bờDù muôn vời cách trở”Ở khổ thơ thứ 7 này, biển mang biểu trưng kép. Thứ nhất, biển là điểm bắt đầu cho hành trình con sóng vào bờ. Thứ hai, biển biểu thị, ẩn dụ chứa “muôn vàn cách trở” những khó khăn, gian lao mà con sóng gặp phải trong hành trình của mình. Không có tình yêu nào, chính xác hơn là không có hạnh phúc nào lại không phải trải qua những gian lao vất vả. Tứ thơ ở đây vừa lắng đọng, vừa giãi bày, vừa chiêm nghiệm như được chắt ra từ chính cuộc đời chìm nổi như những con sóng của nhà thơ.Đế khổ thơ thứ 8, biển lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác:“Cuộc đời tuy dài thếNăm tháng vẫn qua điNhư biển kia dẫu rộngMây vẫn bay về xa”Đây là khổ thơ có tầm triết lí nhân sinh đậm nét nhất trong toàn bộ bài thơ “Sóng”. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã đề cập tới vấn đề cơ bản nhất của đời người: thời gian. Cuộc đời con người tuy dài ngắn khác nhau, có lúc thật dài, có lúc thật ngắn nhưng chung quy lại đều có giới hạn. Hình ảnh biển dẫu rộng nhưng vẫn bị những áng mây nhởn nhơ trên bầu trời vượt qua là phép ẩn dụ tiêu biểu. Biển ở khổ thơ này tượng trưng cho thời gian hữu hạn của đời người, đến một lúc, một giờ khắc nào đó sẽ không cò tồn tai nữa trong dòng thời gian thật. Chúng ta bắt gặp ở đây một cảm giác thật mong manh, bất lực của con người trước tự nhiên của Xuân Quỳnh. Chúng ta bắt gặp cảm thức ấy trong thơ Lưu Quang Vũ, người chồng của nữ sĩ. Cặp vợ chồng tài hoa này có cùng chung cảm thức, tâm trạng (và phần nào là cách thể hiện) trước cái vô biên của không gian, vô định của thời gian. Lưu Quang Vũ đã viết trong “Bài hát ấy vẫn còn đang dang dở” những vần thơ như sau:“Nắng đã tắt dần trên lá imChiều đã sẫm màu xanh trong mắt tốiĐường đã hết trước biển cao vời vợiTây đã buông khi vừa dứt cung đànGió đã dừng nơi cuối chót không gianMưa đã tạnh ở trong lòng đất thẳmNgười đã sống hết tận cùng năm thángSau vô biên sẽ chỉ có vô biên”Tứ thơ “sau vô biên chỉ có vô biên” là một lời nhắc nhở đầy “ngậm ngùi” về thân phận con người trước tự nhiên. Là một nhà thơ, lại là nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh càng có cái nhạy cảm mong manh ấy. Nhưng bằng bản năng, bằng tình yêu sâu sắc mãnh liệt của mình, nhà thơ muốn vượt qua vài lần ranh giới sinh tử đó. Nếu người đàn ông, sức dài vai rộng, chọn cách lập nghiệp để “nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh” thì Xuân Quỳnh lại chọn cách rất phụ nữ, chìm đắm trong tình yêu. Nhà thơ ao ước:“Làm sao được tan raThành trăm con sóng đóGiữa biển lớn tình yêuĐể ngàn năm còn vỗ”Hình ảnh biển ở đây giờ đã hòa làm một, quấn quýt cùng sóng thành biểu tượng tình yêu vĩnh cửu. Như vậy mặc dù xuất phát với những ý nghĩa, vai trò khác nhau, nhưng đến khổ thơ cuối, biển và sóng đã “hòa chung nhịp đập” xoắn xuýt bên nhau như đôi tình nhân, tụng ca tình yêu muôn đờiQua phân tích ở trên, chúng ta thấy trong “Sóng” không chỉ có cảm hứng tình yêu, qua hình ảnh con sóng, mà còn có triết lí nhân sinh với hình ảnh biển mang ý nghĩa đại diện. Sự hòa quện, đan xen, gắn bó mật thiết giữa sóng và biển, giữa cảm hứng tình yêu và cảm hứng nhân sinh, đã làm nên một bài thơ “Sóng” – đi cùng năm tháng, làm nổi bật tài năng, sự nhạy cảm thiên phú cùng trai tim tha thiết yêu thương của nhà thơ Xuân Quỳnh, một trong những gương mặt thơ nữ tiêu biểu của văn học hiện đại nước nhà.

Triết lí nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua hai phát hiện của Phùng

Trong văn học cách mạng trước năm 1975, thước đo giá trị chủ yếu của nhân cách là sự cống hiến, hy sinh cho cách mạng, là các tiêu chuẩn đạo đức cách mạng được thể hiện chủ yếu trong mối quan hệ với đồng chí, đồng bào, với kẻ thù. Sau năm 1975, văn chương trở về với đời thường và Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đổi mới đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Khi làm cho người đọc ý thức về sự thật, có khả năng nhìn thẳng vào sự thật, phát hiện nhiều mối quan hệ xã hội phức tạp, chằng chịt, thì văn chương đã ít nhiều đáp ứng được nhu cầu nhìn nhận và hoàn thiện nhiều mặt của nhân cách con người. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng đó.Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở toà án huyện là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng và Đẩu hiểu được nguyên do của những điều tưởng như vô lý. Bề ngoài đó là một người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu, bị chồng thường xuyên hành hạ, đánh đập thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, vậy mà vẫn nhất quyết gắn bó với lão đàn ông vũ phu ấy. Chỉ qua những lời giãi bày thật tình của người mẹ đáng thương đó mới thấy nguồn gốc mọi sự chịu đựng, hy sinh của bà là tình thương vô bờ với những đứa con: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có những người đàn ông ở thuyền để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”. Nếu hiểu sự việc một cách đơn giản, chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nếu nhìn vấn đề một cách thấu suốt sẽ thấy suy nghĩ và xử sự của bà là không thể khác được. Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no… trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận, vui vẻ”; “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn…”. Qua câu chuyện của người đàn bà càng thấy rõ: không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của cuộc sống.Tư tưởng nghệ thuật đó của Nguyễn Minh Châu thấm sâu trong hầu hết các nhân vật của truyện ngắn: người đàn bà vùng biển, lão đàn ông độc ác, chị em thằng Phác, người nghệ sĩ nhiếp ảnh. Tác giả chỉ gọi là “người đàn bà” một cách phiếm định. Tuy không có tên tuổi cụ thể, chỉ là một người vô danh như biết bao người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được tác giả tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong truyện ngắn này. Trạc ngoài bốn mươi, thô kệch, rỗ mặt, lúc nào cũng xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ. Bà thầm lặng chịu đựng mọi đớn đau, khi bị chồng đánh “không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách trốn chạy”, bà coi đó là lẽ đương nhiên, chỉ đơn giản trong cuộc mưu sinh đầy cam go, trên chiếc thuyền kiếm sống ngoài biển xa cần có một người đàn ông khoẻ mạnh và biết nghề, chỉ vì những đứa con của bà cần được sống và lớn lên. “Tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc hiểu thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài” – một sự cam chịu nhẫn nhục như thế thật đáng để chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha, đức hy sinh.Có lẽ cuộc sống đói nghèo, vất vả, quẩn quanh bao nhiêu lo toan, cực nhọc đã biến “anh con trai cục tính nhưng hiền lành” xưa kia thành một người chồng vũ phu, một lão đàn ông độc ác. Cứ khi nào thấy khổ quá là lão đánh vợ, đánh như để giải toả uất ức, để trút cho sạch nỗi tức tối, buồn phiền: “lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Trong đời vẫn có những kẻ như thế, nói như Nam Cao trước kia, chỉ để thoả mãn lòng ích kỷ, chúng tự cho mình cái quyền được hành hạ mọi người. Lão đàn ông “chân chữ bát”, “mái tóc tổ quạ”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ”, vừa là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho chính những người thân của mình.Trong một gia đình mà bố mẹ có chuyện lục đục, đáng thương nhất là những đứa trẻ. Chúng bị đẩy vào tình thế thật khó xử: biết đứng về phía ai, biết làm thế nào để trọn đạo làm con? Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lý. Chắc trong lòng cô bé tan nát vì đau đớn: bố điên cuồng hành hạ mẹ; chỉ vì thương mẹ mà thằng em định cầm dao ngăn bố… Cô bé lúc ấy là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Còn thằng Phác lại thương mẹ theo kiểu một đứa con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển: nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”, nó “tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Mặc dù thật khó chấp nhận kiểu bảo vệ mẹ của nó, nhưng hình ảnh thằng Phác vẫn khiến người ta cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.Vốn là người lính chiến từng vào sinh ra tử, Phùng căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công bằng. Anh thực sự xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát hiện ra ngay sau cảnh đẹp chiếc thuyền ngoài xa là sự bạo hành của cái xấu, cái ác. Mới đầu, chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ và người vợ nhẫn nhục chịu đựng, Phùng hết sức “kinh ngạc”, anh “há mồm ra mà nhìn”, rồi sau như một phản xạ tự nhiên, anh “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Hành động ấy nói được nhiều điều. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, bởi lẽ nghệ thuật chân chính luôn là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Nếu coi tình huống là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, đôi khi tạo ra những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người, thì với Phùng, việc chứng kiến lão đàn ông đánh vợ là một sự kiện như thế. Trước đó, Phùng nhìn đời bằng con mắt của một nghệ sĩ, anh rung động, say mê trước vẻ đẹp “trời cho” của thuyền biển sớm mai. Chính trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn nhất, anh bất ngờ chứng kiến đôi vợ chồng từ con thuyền “thơ mộng” bước xuống, rồi lão đàn ông đánh vợ một cách dã man và vô lý. Tình huống đó được lặp lại một lần nữa, Phùng không chỉ chứng kiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng mà còn thấy được thái độ, hành động của chị em thằng Phác trước sự hung bạo của cha với mẹ. Từ đó đến cuối truyện, Phùng đã có cách nhìn đời khác hẳn. Anh thấy rõ những cái ngang trái trong gia đình thuyền chài ấy, hiểu sâu thêm tính cách người đàn bà, chị em thằng Phác, hiểu sâu thêm bản chất người đồng đội của mình (Đẩu) và hiểu thêm chính mình. Tình huống truyện đã được Nguyễn Minh Châu đẩy lên cao trào và ngày càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con người, phát hiện sự thật cuộc đời.[...]Phát hiện thứ nhất của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh là một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh, nơi anh đã dự tính bố cục, đã “phục kích” mấy buổi sáng để “chộp” được một cảnh thật ưng ý. Giây phút ấy đã tới, đôi mắt nhà nghề của người nghệ sĩ đã phát hiện ra vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ anh chỉ có diễm phúc bắt gặp được một lần: “trước mặt tôi là bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới… toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp… Tôi tưởng thấy chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường như trong hình ảnh về chiếc thuyền ngoài xa giữa trời biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận Thiện, tận Mỹ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời.Phát hiện thứ hai của nhân vật nghệ sĩ nhiếp ảnh lại đầy nghịch lý, nó bất ngờ và trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống. Phùng đã từng có “cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn mình do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”, anh đã từng chiêm nghiệm “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, vậy mà hoá ra đằng sau cái đẹp “toàn bích… toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên mặt biển xa lại chẳng phải là “đạo đức”, là “chân lý của sự toàn thiện”. Anh đã chứng kiến từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão đàn ông thô kệch, dữ dằn và độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để giải toả những uất ức, khổ đau. Phùng đã từng là người lính cầm súng chiến đấu để có vẻ đẹp thanh bình của thuyền biển mênh mông, anh không thể chịu được khi chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách vô lý và thô bạo. Nhưng anh chưa kịp xông ra thì thằng Phác, con lão đàn ông đã kịp tới để che chở cho người mẹ đáng thương. Chỉ đến lần thứ hai, khi lại phải chứng kiến cảnh ấy, Phùng mới thể hiện được bản chất người lính không thể làm ngơ trước sự bạo hành của cái ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện, ở đó có chánh án Đẩu, bạn chiến đấu cũ của anh. Phùng cay đắng nhận thấy những cái ngang trái, xấu xa, những bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm những thước phim huyền diệu mà anh dày công chụp được bỗng hiện hình thật khủng khiếp, ghê sợ.[...]Có thể thấy cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm Nguyễn Minh Châu trước năm 1975 là cảm hứng anh hùng cách mạng, còn sau năm 1975 là cảm hứng về nhân cách con người, là hành trình “khám phá con người bên trong con người” (Bakhtin). Theo mạch cảm hứng ấy, năm 1982 Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn Bức tranh; trong ý nghĩ tự phán xét, nhân vật hoạ sĩ đã vẽ một bức chân dung tự hoạ nhằm thể hiện “khuôn mặt bên trong của chính mình”. Đáng lưu ý là, nếu trong truyện Bức tranh, Nguyễn Minh Châu hướng cái nhìn nghệ thuật vào thế giới nội tâm thì trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu lại hướng cái nhìn nghệ thuật ra thế giới bên ngoài, ra cuộc sống đời thường. Nếu truyện Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của con người dưới ánh sáng của lương tâm, đạo đức, thì truyện Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống thường ngày. Cả hai tác phẩm đều được viết dưới sự chỉ đạo của quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách con người, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”ời, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng, thật đúng như Nguyễn Minh Châu từng khẳng định: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.